Chế Độ Dạy Và Học Nghề Giai Đoạn 1986-1994.


+ Văn hóa của người học nghề phải tốt nghiệp cấp I trường phổ thông, cán bộ, công nhân viên trong biên chế phải có trình độ tương đương. Đối với anh em dân tộc miền núi có thể châm chước một phần.

+ Về chính trị: người học nghề phải có hạnh kiểm tốt và không mất quyền công dân.

* Về thời gian học.


+ Nói chung thời gian đào tạo từ một năm rưỡi đến ba năm (kể cả thời gian tập sự). Các loại thợ cơ ký, điện, mỏ, kiến trúc có thể học hai năm và một năm tập sự. Các loại thợ trong công nghiệp nhẹ có thể học một năm và nửa năm tập sự. Đối với những nghề kỹ thuật đơn giản, các ngành có thể quy định thời hạn học ngắn hơn.

+ Đối với người học nghề theo lối kèm cặp trong sản xuất thời gian học tập cả về lý thuyết và thực hành có thể quy định khoảng từ 1 năm rưỡi trở lên, còn các loại thợ trong công nghiệp nhẹ và một số loại thợ kỹ thuật giản đơn trong ngành xây dựng, thời gian học tập quy định không nên dưới 1 năm.

+ Trường hợp đào tạo mới trong sản xuất, đào tạo lại, đào tạo nghề thứ hai thời gian tối đa không quá 12 tháng.

+ Đối với việc bồi dưỡng nghề trong sản xuất được tiến hành chủ yếu ngoài giờ sản xuất. Trường hợp được giao chỉ tiêu bồi dưỡng tập trung thì được phép tổ chức học tập trong giờ sản xuất, thời gian bồi dưỡng tập trung không quá 6 tháng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

* Quyền và nghĩa vụ của người học nghề.


Chế độ dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt Nam - 6

+ Người học nghề tại các trường lớp dạy nghề được nghỉ lễ, nghỉ chủ nhật và nghỉ hè theo quy định chung cho các trường dạy nghề.


+ Người học nghề theo lối kèm cặp trong sản xuất được nghỉ theo chế độ về ngày nghỉ quy định chung cho công nhân, lao động.

+ Ngoài ra, người học nghề còn được hưởng chế độ sinh hoạt phí, người trong biên chế được hưởng nguyên lương, được trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cần thiết, được hưởng chế độ tai nạn lao động, được hưởng các quyền lợi về ốm đau, thai sản, trợ cấp con và trợ cấp nghỉ phép. Người trong biên chế học nghề được hưởng chế độ trợ cấp khi chết như công nhân viên chức. Còn người ngoài biên chế khi chết được trợ cấp mai táng phí.

+ Bên cạnh đó, người học nghề phải triệt để tôn trọng và thi hành nội quy của xí nghiệp hay của nhà trường, sau khi học thành nghề phải phục tùng sự điều động của Nhà nước như đã cam kết trong hợp đồng học nghề.

* Về công tác quản lý Nhà nước đối với đào tạo nghề.


+ Trước ngày 17/04/1978 , cơ quan quản lý Nhà nước về vấn đề đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động là Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc Bộ lao động.

+ Từ năm 1978 đến năm 1985, Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật tách ra khỏi Bộ lao động và lấy tên là Tổng cục dạy nghề trực thuộc Hội đồng chính phủ.

+ Năm 1985, Tổng cục dạy nghề giải thể, thay thế nó là Vụ trung học chuyên nghiệp trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo quản lý.

2.1.2.2. Thực tiễn thực hiện.


Trên cơ sở hệ thống các văn bản pháp luật về đào tạo nghề thời kỳ này quá trình thực hiện việc dạy và học nghề đã có những bước phát triển


và đạt được một số kết quả nhất định. Bộ máy quản lý công tác dạy nghề và hệ thống các trường, lớp dạy nghề đã có bước phát triển. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo dục cũng dần dần trưởng thành theo sự phát triển của hệ thống trường, lớp dạy nghề. Nội dung đào tạo trong các trường, lớp dạy nghề đã từng bước cải tiến theo yêu cầu toàn diện về chính trị-đạo đức, văn hóa-kỹ thuật, tay nghề và sức khỏe. Nhiều trường đã áp dụng có kết quả phương pháp thực tập kết hợp với sản xuất, do đó đã nâng cao một bước chất lượng đào tạo, góp phần làm ra sản phẩm có ích cho xã hội, tạo thêm điều kiện để xây dựng cơ sở vật chất và cải thiện đời sống cho nhà trường.

Chế độ học nghề thời kỳ này đã bước đầu quy định điều kiện người học nghề, các quyền và nghĩa vụ của người học nghề, các nguyên tắc, phương hướng tuyển chọn công nhân vào bổ túc và đào tạo thợ mới tại các cơ sở sản xuất quốc doanh, các công trường kiến thiết cơ bản và đi học nghề ở nước bạn, quy định cụ thể về công tác đào tạo và bồi dưỡng nghề trong sản xuất để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật như đào tạo mới những công nhân chưa lành nghề, đào tạo lại và đào tạo nghề thứ hai, bồi dưỡng cho công nhân đạt trình độ lành nghề, bồi dưỡng công nhân đạt trình độ lành nghề bậc cao, bồi dưỡng các chuyên đề cần thiết trong sản xuất cho công nhân, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý sản xuất cho tổ trưởng sản xuất. Ngoài ra, bộ máy của Tổng cục dạy nghề, quy chế của Trường dạy nghề Nhà nước cũng được ghi nhận cụ thể.

Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của xã hội, công tác dạy và học nghề vẫn còn nhiều thiếu sót và nhược điểm nhất định cụ thể như sau:

Thứ nhất, đây là thời kỳ Nhà nước hầu như độc quyền trong việc mở cơ sở dạy nghề, phần lớn những trường hợp dạy nghề là của Nhà nước. Những cơ sở dạy nghề truyền thống, kèm cặp tại xưởng, tại nhà còn nhiều


hạn chế. Chưa có trường dạy nghề áp dụng cho các đối tượng lao động đặc thù như lao động nữ, lao động tàn tật.

Thứ hai, hình thức đào tạo chưa phong phú, chủ yếu là đào tạo thời gian từ một năm rưỡi đế ba năm, đối với loại đào tạo dưới một năm hầu như ít quy định. Ngành nghề đào tạo chỉ tậpỹ trung vào các nghề như cơ khí, điện, mỏ, kiến trúc, hóa chất, xây dựng, nông nghiệp, lái xe.

Thứ ba, Nhà nước luôn đặt ra chỉ tiêu số lượng người học nghề, ngành nghề đào tạo, người học nghề được Nhà nước bao cấp các chi phí, do đó chưa phát huy hết được sự tự do lựa chọn nghề nghiệp, địa điểm phù hợp với bản thân và gia đình người học nghề. Do vậy người học nghề cũng không thể hiện hết năng lực, khả năng sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp của mình để cạnh tranh với các đồng nghiệp khác và vì vậy họ dễ ỷ lại vào Nhà nước.

Thứ tư, mạng lưới trường, lớp trước đây hình thành theo yêu cầu riêng của từng ngành, từng địa phương, chưa được phân công, sắp xếp hợp lý, cơ cấu ngành nghề đào tạo thiếu cân đối, cơ sở vật chất kỹ thuật của phần lớn các trường lớp dạy nghề còn kém, đội ngũ giáo viên còn thiếu và yếu về nghiệp vụ sư phạm. Nội dung và phương pháp đào tạo, kể cả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhiều trường dạy nghề chưa quán triệt mục tiêu và nguyên lý giáo dục. Nội dung đào tạo nhiều nơi còn nặng nề, ít thiết thực hoặc không đầy đủ. Phương pháp đào tạo còn thiếu khoa học. Hệ thống quản lý ngành dạy nghề từ trên xuống dưới còn yếu.

Tóm lại, vấn đề dạy và học nghề trong giai đoạn này bên cạnh những ưu điểm thì vẫn còn những khiếm khuyết nhất định, xuất phát từ một số lý do như:


Ngành dạy nghề chưa được kiện toàn và chưa được coi là một ngành giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các trường dạy nghề chưa đúng mức, các ngành, các cấp chưa biết kết hợp Nhà nước với nhân dân trong việc xây dựng và phát triển công tác dạy nghề, việc chỉ đạo công tác dạy nghề của các cấp, các ngành còn thiếu sâu sát và kịp thời.

2.1.3. Chế độ dạy và học nghề giai đoạn 1986-1994.

2.1.3.1. Cơ sở pháp lý.

Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển xã hội ở Việt Nam, làm thay đổi về chất mọi hoạt động kinh tế của nước ta. Trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường, xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, lạc hậu. Hiến pháp 1992 đã ghi nhận chủ trương phát triển cơ chế thị trường thành một nguyên tắc hiến định. Bên cạnh Hiến pháp, một loạt các văn bản pháp luật ra đời điều chỉnh các quan hệ lao động đang dần phát triển đa dạng và mới về chất trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta thừa nhận sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt trong thị trường lao động. Ngoài các văn bản như Pháp lệnh hợp đồng lao động (30/8/1990), Pháp lệnh bảo hiểm lao động (10/9/1991), Nghị định 25/CP và 26/CP về tiền lương...điều chỉnh các quan hệ lao động phát triển theo hướng mới, pháp luật lao động cũng đề cập đến vấn đề học nghề. Mặc dù số lượng văn bản về học nghề giai đoạn này ít nhưng thông qua các văn bản này chúng ta thấy quan điểm của Nhà nước ta về công tác đào tạo nghề có nhiều thay đổi. Trước yêu cầu của cơ chế thị trường với các quan hệ lao động phát triển đa dạng phong phú, trước sự lớn mạnh của nền khoa học công nghệ tiên tiến đòi hỏi một lực lượng lao động giỏi về chuyên môn, tay nghề thì rõ ràng, nhu cầu học nghề, dạy nghề đã trở thành nhu cầu cấp thiết. Pháp luật về dạy và học nghề giai đoạn này có các văn bản sau:


- Quyết định 63/HĐBT ngày 10/6/1989 về học bổng, học phí của học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

- Công văn 1236/LĐTB-VL ngày 29/4/1993 hướng dẫn dự án dạy nghề cho lao động từ Cộng hòa liên bang Séc và Slovakia (cũ) trở về.

- Thông tư Liên bộ 11/TTLB ngày 20/12/1993 hướng dẫn việc giáo dục pháp luật, giáo dục công dân, dạy văn hóa, dạy nghề, chế độ sinh hoạt giải trí cho phạm nhân.

- Nghị định 115/CP ngày 5/9/1994 về việc ban hành quy chế hoạt động của trường dạy nghề của nước ngoài tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.1.3.2. Thực tiễn thực hiện.


Nhìn chung, pháp luật điều chỉnh về dạy và học nghề giai đoạn này ít, chủ yếu dựa vào chính sách của Đảng và Nhà nước nhưng công tác đào tạo nghề đã có những biến chuyển cơ bản.

Thứ nhất, Nhà nước cho phép và khuyến khích tư nhân tham gia vào lĩnh vực đào tạo nghề cho người lao động. Đây là một điểm rất quan trọng thúc đẩy mọi cá nhân, tổ chức quan tâm đến công tác dạy và học nghề.

Thứ hai, Nhà nước thành lập các cơ sở dạy nghề ngắn hạn thực hành là chính, kết hợp với đa dạng hóa ngành nghề cũng như phương pháp và hình thức đào tạo hướng vào những ngành mà thị trường và nhu cầu người học đang cần. Số lượng ngành nghề đào tạo được tăng thêm như: sửa chữa lắp ráp, điện tử, ô tô, xe máy, vi tính, mộc dân dụng, điện lạnh...


Thứ ba, các cơ sở đào tạo nghề thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh. Ngoài hệ thống dạy nghề thuộc ngành giáo dục còn có hệ thống dạy nghề của Bộ lao động-thương binh xã hội, cơ sở dạy nghề của các đoàn thể, tư nhân, cơ sở dạy nghề trong các xí nghiệp, cơ sở dạy nghề truyền thống, cơ sở dạy nghề kèm cặp tại xưởng, tại nhà...

Thứ tư, Hiến pháp 1992 ra đời đã ghi nhận học nghề trở thành một quyền cơ bản của công dân. Người học nghề có thể học nghề bằng nhiều hình thức khác nhau.

Tóm lại, việc dạy và học nghề giai đoạn này đã có những thay đổi cơ bản so với thời kỳ trước. Tuy nhiên, xét trong điều kiện phát triển kinh tế-xã hội thì vấn đề dạy và học nghề vẫn chưa đáp ứng được xu thế của thời đại, giai đoạn này còn thiếu cơ sở pháp lý quan trọng cho sự lớn mạnh của việc đào tạo nghề.

2.1.4. Chế độ dạy và học nghề từ 1994 đến nay.


2.1.4.1. Cơ sở pháp lý.


Có thể nói, nền kinh tế thị trường đã đem lại sắc thái mới cho nền kinh tế của nước ta. Hòa chung trong sự phát triển đó, thị trường lao động ngày càng phong phú, đa dạng, sức lao động được coi là loại hàng hóa đặc biệt, quan hệ lao động cũng có những thay đổi mới. Nhu cầu học nghề ngày càng tăng, nó không chỉ có ý nghĩa đối với người lao động mà đối với cả xã hội. Đáp ứng yêu cầu chung này, ngày 5/7/1994 Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật lao động của nước ta. Bộ luật lao động ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tiến trình phát triển lịch sử của pháp luật lao động nói chung và pháp luật về dạy học nghề nói riêng. Lần đầu tiên Bộ luật lao động ghi nhận học nghề thành một chương riêng gồm 5 điều quy định một cách khái quát mang tính định hướng về điều kiện của người học


nghề, cơ sở dạy nghề...trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền đã cụ thể hóa Bộ luật lao động về chế độ dạy và học nghề. Trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản sau:

1. Nghị định 90/CP ngày 15/12/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học nghề.

2. Thông tư 32 TC/TCT ngày 6/7/1996 hướng dẫn thi hành việc miễn giảm thuế đối với cơ sở dạy nghề theo quy định của Bộ luật lao động.

3. Quyết định 1114/LĐTBXH-QĐ ngày 12/9/1996 về việc ban hành quy chế hoạt động của cơ sở dạy nghề.

4. Thông tư 18/LĐTB-TT ngày 12/9/1996 hướng dẫn thực hiện quy hoạch hệ thống cơ sở dạy nghề.

5. Thông tư 19/LĐTB-XH-TT ngày 12/9/1996 hướng dẫn việc dạy nghề, đào tạo lại nghề, bổ túc, bồi dưỡng nghề cho người lao động và dạy thêm nghề dự phòng cho lao động nữ làm việc trong doanh nghiệp.

6. Thông tư 20/LĐTBXH-TT ngày 21/9/1996 hướng dẫn việc mở và quản lý cơ sở dạy nghề.

7. Thông tư 22/GD-ĐT ngày 30/9/1996 hướng dẫn thực hiện NĐ 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ về “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động và học nghề”.

8. Quyết định 67/1998/QĐ-TTg ngày 26/3/1998 về việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đào tạo nghề từ Bộ giáo dục và đào tạo sang Bộ lao động-thương binh và xã hội.

9. Thông tư 178/1998/TCCP ngày 4/6/1998 hướng dẫn thực hiện Quyết định 67/1998/QĐ-TTg ngày 4/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí