Nội Dung Cơ Bản Của Chế Độ Dạy Và Học Nghề Theo Pháp Luật Lao Động Hiện Hành.


việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đào tạo nghề từ Bộ giáo dục và đào tạo sang Bộ lao động-thương binh và xã hội.

10. Nghị định 02/2001/NĐ-CP ngày 09/01/2001 quy định chi tiết thi hành Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề.

11. Quyết định 775/2001/QĐ-BLĐTBXH ngày 9/8/2001 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm dạy nghề.

12. Quyết định 776/2001/QĐ-BLĐTBXH ngày 9/8/2001 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm dạy nghề.

13. Thông tư 01/2002/TT-BLĐTBXH ngày 4/1/2002 hướng dẫn việc thành lập, đăng ký hoạt động và chia tách, sát nhập, đình chỉ hoạt động, giải thể cơ sở dạy nghề.

14. Thông tư 02/2002/TT-BLĐTBXH ngày 4/01/2002 hướng dẫn chế độ làm việc của giáo viên trường dạy nghề.

2.1.4.2. Thực tiễn thực hiện.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Chế độ dạy và học nghề trong giai đoạn này có những bước tiến đáng kể thích ứng được với cơ chế thị trường, vấn đề dạy và học nghề không những được Đảng, Nhà nước mà cả mọi người quan tâm. Người lao động đã nhận thức được ý nghĩa và vai trò của việc dạy và học nghề trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Chế độ pháp lý về dạy và học nghề trong giai đoạn này có nhiều thay đổi mà từ trước đến nay chưa có:

Thứ nhất, hệ thống quản lý hành chính trong lĩnh vực đào tạo nghề có sự thay đổi lớn. Trước đây, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đào tạo nghề thuộc Bộ giáo dục-đào tạo nhưng bây giờ việc quản lý về lĩnh vực này được chuyển giao cho Bộ lao động-thương binh xã hội. Việc dạy và học

Chế độ dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt Nam - 7


nghề luôn gắn liền với quan hệ lao động và đào tạo nghề luôn gắn với việc giải quyết việc làm. Do vậy, việc chuyển giao nhiệm vụ về đào tạo nghề như Quyết định số 67/98/QĐ-TTg ngày 26/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ là hợp lý. Còn công tác phát triển đào tạo nghề nằm trong chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo thì sẽ do Bộ giáo dục-đào tạo định hướng là phù hợp hơn cả. Sau sự đổi mới này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/1998/NĐ-CP về việc thành lập Tổng cục dạy nghề thuộc Bộ lao động- thương binh và xã hội ngày 23/5/1998, thông qua Nghị định này quyền và nghĩa vụ của Tổng cục dạy nghề được quy định một cách cụ thể, chặt chẽ làm cơ sở pháp lý quan trọng cho các chủ thể tham gia vào quan hệ học nghề. Có thể nói, đây là sự đổi mới mang tính chiến lược quan trọng trong công cuộc đổi mới của công tác đào tạo nghề.

Thứ hai, Nhà nước cho phép và khuyến khích tất cả các cơ sở đào tạo nghề thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là đối với các cơ sở của tư nhân được tham gia vào việc đào tạo nghề. Đây là thay đổi quan trọng thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước ta đối với yêu cầu đổi mới của công tác đào tạo nghề. Đồng thời, nó cũng thể hiện nguyên tắc tự do, bình đẳng cho các chủ thể tham gia vào quan hệ này. Trên cơ sở đó, Nhà nước còn quy định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của cơ sở dạy nghề, những hoạt động mà các cơ sở đào tạo nghề không được thực hiện, đồng thời Nhà nước cũng xây dựng một mạng lưới quan trọng về đào tạo nghề từ Trung ương đến địa phương, quy định chính sách đầu tư, ưu đãi cho dạy nghề, quan tâm hỗ trợ đặc biệt đến các đối tượng học nghề thuộc diện chính sách xã hội để tạo điều kiện cho các chủ thể này tích cực tham gia vào quá trình đào tạo nghề.

Thứ ba, pháp luật đã có quy định cụ thể về hợp hợp đồng học nghề:

khái niệm, hình thức, phạm vi áp dụng hợp đồng học nghề, nội dung của


hợp đồng học nghề...Có thể nói, hợp đồng học nghề là cầu nối quan trọng giữa người học nghề và cơ sở đào tạo nghề. Thông qua đó, các chủ thể tự do thể hiện ý chí, bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên, đây là căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật về học nghề và cũng là căn cứ để các bên giải quyết các tranh chấp, bất đồng.

Thứ tư, lần đầu tiên pháp luật lao động về học nghề quy định nghề dự phòng cho lao động nữ. Lao động nữ là một loại lao động đặc thù, họ một lúc cùng thực hiện chức năng làm vợ, làm mẹ và đảm bảo quá trình sản xuất. Chính vì đặc điểm riêng của lao động nữ như vậy cho nên khi tham gia vào quan hệ lao động họ luôn ở vị trí bất lợi hơn so với lao động nam. Việc quy định về đào tạo nghề cho lao động nữ thể hiện sự nhân đạo của pháp luật lao động nói chung và pháp luật về dạy, học nghề nói riêng. Thông qua việc đào tạo nghề cho lao động nữ giúp cho họ có nhiều cơ hội mới ổn định việc làm, ổn định gia đình và đó cũng thể hiện sự bình đẳng về giới phù hợp với thế kỷ XXI “vì sự tiến bộ của phụ nữ”.

Thứ năm, pháp luật quy định về dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài một cách cụ thể, có hệ thống. Các trường hợp được phép đào tạo nghề, bảo đảm quyền đăng ký dự tuyển vào học nghề đối với mọi công dân Việt Nam, người nước ngoài, quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của các bên, thẩm quyền thành lập, giải thể trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài...Quy định này nhằm khuyến khích thu hút các tổ chức, cơ sở dạy nghề nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đây cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy đưa nước ta hòa nhập vào hoạt động dạy và học nghề của các nước trên thế giới.

Tóm lại, chế độ dạy và học nghề đã có quá trình phát triển lâu dài, mỗi một thời kỳ công tác dạy và học nghề lại có những đặc điểm riêng.


Mặc dù, qua các thời kỳ chế độ dạy và học nghề còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định rằng pháp luật về dạy và học nghề luôn luôn phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Nghiên cứu lịch sử phát triển của pháp luật về dạy và học nghề để thấy được tính hệ thống, logic nhằm củng cố, hoàn thiện pháp luật về dạy và học nghề.

Trong giai đoạn hiện nay, phải coi phát triển giáo dục đào tạo, trong đó có đào tạo nghề là quốc sách hàng đầu, là sự nghệp của toàn xã hội. Nếu không phát triển đào tạo nghề sẽ không thể thực hiện được tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.‌

2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ DẠY VÀ HỌC NGHỀ THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH.

2.2.1. Những quy định của pháp luật đối với người học nghề.

Khi tham gia quan hệ pháp luật về học nghề, người học nghề có quyền tự do lựa chọn địa điểm, hình thức học nghề và học những nghề phù hợp với bản thân và điều kiện hoàn cảnh gia đình, đồng thời người học nghề cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Quyền và nghĩa vụ của người học nghề là hai mặt nằm trong chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Không thể có quyền mà không có nghĩa vụ và ngược lại. Quyền và nghĩa vụ của người học nghề được quy định cụ thể trong Quyết định 1114/LĐTBXH ngày 12/9/1996 về việc ban hành quy chế hoạt động của cơ sở dạy nghề.

2.2.1.1. Quyền lợi của người học nghề.


1. Trong thời gian học nghề, học viên được hưởng quyền lợi vật chất, tinh thần theo hợp đồng học nghề đã ký với cơ sở dạy nghề và những chế độ hiện hành của Nhà nước.


2. Học viên được cơ sở dạy nghề phổ biến nội quy, quy chế về học tập, chính sách, chế độ của Nhà nước có liên quan đến học viên.

3. Học viên được sử dụng các trang, thiết bị, phương tiện phục vụ học tập, thí nghiệm để nâng cao trình độ, theo quy định của cơ sở dạy nghề. Học viên được đóng góp ý kiến với Giám đốc cơ sở dạy nghề về mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo.

4. Học viên được đảm bảo về an toàn lao động, vệ sinh lao động theo quy định của Bộ luật lao động và Nghị định 06/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ.

5. Học viên được đề đạt nguyện vọng, khiếu nại lên Giám đốc cơ sở dạy nghề giải quyết các vấn đề liên quan đến cá nhân, tập thể học viên như học tập, ăn, ở, sinh hoạt văn hóa, thể dục, thể thao.

6. Học viên được khuyến khích, tạo điều kiện hoạt động trong các tổ chức đoàn thể, các hoạt động xã hội trong, ngoài cơ sở dạy nghề, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao phù hợp với mục tiêu đào tạo của cơ sở dạy nghề.

7. Học viên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng theo luật

định.


8. Học viên đặc biệt còn được miễn giảm học phí theo quy định của

pháp lệnh người có công và pháp lệnh người tàn tật.


Đối với người học nghề là người tàn tật, trẻ em mồ côi, thương binh, và con em của thương binh, liệt sĩ, pháp luật đã có những ưu đãi đặc biệt quy định tại Điều 3, khoản 2 Nghị định 02/CP ngày 9/01/2001 và được ghi nhận cụ thể trong Nghị định 28/CP ngày 20/04/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động


cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng và Nghị định 81/CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về người lao động là người tàn tật. Các đối tượng chính sách được hưởng chế độ ưu đãi như sau:

- Anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, con của liệt sĩ, con của thương binh, con của bệnh binh và con của người hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 81% trở lên, khi học ở các trường dạy nghề được xếp vào nhóm ưu tiên cao trong tuyển chọn, trong việc xét lên lớp, thi kiểm tra ở cuối năm học, chuyển giai đoạn trong đào tạo; được cấp 50% tiền mua vé xe tháng để đi học từ nơi ở nội trú đến trường; được miễn nộp học phí.

- Học viên là con của thương binh, bệnh binh và con của người hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 61% đến 80% được miễn nộp học phí.

- Học viên là con của thương binh, con của người hưởng chính sách như thương binh mất sức lao động từ 21% đến 60% được giảm 50% mức nộp học phí.

- Ngoài ra, học viên thuộc diện chính sách ưu đãi đang học ở các trường dạy nghề còn được trợ cấp xã hội hàng tháng từ 100.000 đồng đến

150.000 đồng/ người tùy từng trường hợp cụ thể.


- Học viên là người tàn tật mà khả năng lao động bị suy giảm từ 31% đến 40% được giảm 50% học phí.

- Học viên là người tàn tật mà khả năng lao động bị suy giảm từ 41% trở lên sẽ được miễn học phí.


2.2.1.2. Nghĩa vụ của người học nghề.


1. Học viên phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc hợp đồng học nghề và bổ túc, bồi dưỡng nghề đã ký với cơ sở dạy nghề.

2. Học viên phải tôn trọng, thực hiện đầy đủ quy chế, nội quy của cơ sở dạy nghề về học tập, thực hành như:

- Thực hành đầy đủ chương trình, nội dung học tập theo hợp đồng học nghề và bổ túc, bồi dưỡng nghề.

- Quan hệ nghiêm túc, đúng mực với giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên phục vụ trong cơ sở dạy nghề.

- Triệt để tôn trọng và chấp hành các quy định về an toàn lao động.


- Giữ gìn, bảo vệ trang, thiết bị, tài liệu, đồ dùng phục vụ học tập và các tài sản khác của cơ sở dạy nghề.

- Nộp học phí đầy đủ, đúng kỳ hạn theo hợp đồng học nghề và bổ túc, bồi dưỡng nghề.

- Học viên không được làm gì ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội trong cơ sở dạy nghề, trong ký túc xá, thực hiện nếp sống văn minh, lành mạnh.

2.2.2. Những quy định của pháp luật đối với cơ sở dạy nghề.


2.2.2.1. Điều kiện mở cơ sở dạy nghề.


* Đối với cơ sở dạy nghề công lập, bán công, dân lập, tư thục có số học sinh từ 10 người trở lên, cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp, hợp tác xã được tổ chức thành lớp học có thu học phí phải có các điều kiện sau (theo Nghị định 02/CP ngày 09/01/2001).


Thứ nhất, cơ sở dạy nghề nói trên phải có cơ sở dạy lý thuyết, thực hành, thiết bị, phương tiện bảo đảm dạy nghề đạt trình độ, kỹ năng nghề theo mục tiêu đào tạo đã đăng ký; bảo đảm các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho người học. Đây là một điều kiện cần thiết, quan trọng trước hết để tạo môi trường học nghề phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo nghề, đồng thời đây cũng là yếu tố thu hút người học nghề tham gia ngày càng nhiều vào quá trình học nghề.

Thứ hai, phải có đội ngũ giáo viên dạy nghề đạt trình độ chuẩn theo quy định của Luật giáo dục và Nghị định 02/CP ngày 09/01/2001.

Đối với trường hợp dạy nghề dài hạn, giáo viên dạy nghề phải có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, kỹ thuật hoặc cao đẳng chuyên ngành. Giáo viên chỉ dạy thực hành là nghệ nhân hoặc kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao hơn hai bậc trở lên so với bậc nghề đào tạo.

Đối với trường hợp dạy nghề ngắn hạn giáo viên dạy lý thuyết phải có bằng tốt nghiệp trường sư phạm kỹ thuật hoặc tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, giáo viên dạy thực hành phải là người có kỹ thuật, có tay nghề bậc cao, hoặc là nghệ nhân, chuyên gia.

Thứ ba, phải có chương trình dạy nghề phù hợp với nguyên tắc xây dựng chương trình dạy nghề do Bộ lao động-thương binh và xã hội quy định, có giáo trình dạy nghề do phù hợp với mục tiêu, nội dung đào tạo nghề. Đây là điều kiện rất quan trọng nhằm định hướng cho tất cả các cơ sở đào tạo nghề nói trên trong cả nước phải áp dụng thống nhất chương trình dạy nghề chuẩn theo quy định, đào tạo đúng ngành nghề, mục tiêu đảm bảo tính khoa học, logic nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.

Thứ tư, phải có vốn, tài sản riêng đủ bảo đảm để hoạt động dạy nghề. Tùy mô hình đào tạo nghề, tùy hình thức đào tạo nghề mà số vốn, tài

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí