Đánh Giá Về Các Hạn Chế Trong Pháp Luật Về Chế Độ Tai Nạn Lao Động, Bệnh Nghề Nghiệp

+ Khi người lao động chết thì thân nhân được hưởng tiền mai táng và trợ cấp tuất 1 lần hoặc hàng tháng theo quy định;

+ Nếu người lao động tiếp tục làm việc và tham gia đóng BHXH, ngoài hưởng trợ cấp TNLĐ hàng tháng theo quy định, khi đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí thì được hưởng đồng thời cả lương hưu.

c. Thủ tục hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2006 tại Điều 114, hồ sơ hưởng chế độ TNLĐ bao gồm các loại giấy tờ sau:

- Sổ bảo hiểm xã hội.

- Biên bản điều tra TNLĐ, trường hợp bị tai nạn giao thông được xác định là TNLĐ thì phải có thêm bản sao Biên bản tai nạn giao thông.

- Giấy ra viện sau khi đã điều trị TNLĐ.

- Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa.

- Văn bản đề nghị giải quyết chế độ TNLĐ.

Hồ sơ hưởng chế độ BNN được quy định tại Điều 115 Luật BHXH 2006 cũng bao gồm các loại giấy tờ tương tự, cụ thể là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

- Sổ bảo hiểm xã hội.

- Biên bản đo đạc môi trường có yếu tố độc hại, trường hợp biên bản xác định cho nhiều người thì hồ sơ của mỗi người lao động có bản trích sao.

Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 6

- Giấy ra viện sau khi điều trị BNN, trường hợp không điều trị tại bệnh viện thì phải có giấy khám BNN.

- Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa.

- Văn bản đề nghị giải quyết chế độ BNN.

Sau khi người lao động nộp đầy đủ hồ sơ cho tổ chức BHXH, trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, tổ chức BHXH có trách nhiệm giải quyết, nếu không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lỹ do.

Ngoài ra, Luật BHXH còn quy định chi tiết về hồ sơ giải quyết TNLĐ, BNN tái phát; hồ sơ giải quyết TNLĐ, BNN của người lao động được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động; hồ sơ giải quyết tiền cấp mua phương tiện trợ giúp sinh hoạt và dụng cụ chỉnh hình.

d. Quỹ thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Hiện nay, chi phí thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN được lấy từ Quỹ TNLĐ, BNN, là quỹ thành phần của Quỹ BHXH.

Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, được sử dụng để chi trả cho những người được bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm hoặc bị chết. Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:

- Đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước.

Đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ.

- Phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức bảo hiểm xã hội chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lợi.

- Phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, quỹ còn có các nguồn thu hợp pháp khác được pháp luật của mỗi nước quy định.

Từ 01/01/2012, tổng mức đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc của cả người lao động và người sử dụng lao động là 24%, trong đó: người sử dụng lao động đóng 1% vào quỹ TNLĐ, BNN.

Quỹ TNLĐ, BNN đảm nhận khoản chi chủ yếu là trả trợ cấp cho người bị TNLĐ, BNN. Ngoài ra quỹ này còn dành một phần để chi cho việc khen thưởng đối với người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác BHLĐ, phòng ngừa TNLĐ, BNN.

Tiểu kết:

Có thể nói, pháp luật về chế độ TNLĐ, BNN nước ta qua từng giai đoạn đang phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Nhìn chung các quy định hiện hành là tương đối đầy đủ, bảo đảm đáng kể quyền lợi của người lao động bị TNLĐ, BNN.

Hệ thống các quy định về đối tượng và điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng chế độ TNLĐ, BNN đã được cải thiện và có ý nghĩa to lớn, tạo cơ sở pháp lý cho người lao động trong việc giải quyết quyền lợi khi xảy ra rủi ro trong quá trình lao động, bảo đảm bù đắp một phần thu nhập cho bản thân người lao động bị TNLĐ, BNN. Bên cạnh đó, việc quy định trợ cấp cho thân nhân người lao động trong trường hợp người lao động chết do TNLĐ, BNN cũng thể hiện rõ sự quan tâm và chính sách nhân đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, việc quy định song song về TNLĐ, BNN ở cả 2 văn bản luật là Bộ luật Lao động và Luật BHXH cho thấy sự chưa tập trung, thống nhất trong quy định của pháp luật. Một số quy định về TNLĐ, BNN không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, ví dụ: cơ chế bồi thường, trợ cấp, mức trợ cấp, cơ chế xử phạt vi phạm liên quan đến TNLĐ,… Để chế độ TNLĐ, BNN thực sự là công cụ pháp luật bảo vệ quyền lợi của người lao động bị TNLĐ, BNN thì cần phải hoàn thiện hơn nữa các quy định lỗi thời, không phù hợp trong thời gian tới.

2.1.2. Đánh giá về các hạn chế trong pháp luật về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội thay đổi từng ngày thì một số quy định của pháp luật tỏ ra lạc hậu và không còn phù hợp, Các quy định về chế độ TNLĐ, BNN ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:

a. Đối tượng hưởng chế độ tai nạn lao động còn hạn chế

Đối tượng được hưởng chế độ TNLĐ còn hạn chế ở nhóm người lao động làm việc cho người sử dụng lao động là cá nhân và người lao động ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng. Theo quy định thì đây là hai nhóm đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 10/2003 hướng dẫn Bộ luật Lao động và Luật BHXH 2006. Thông tư số 10/2003 chỉ quy định những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức mới thuộc phạm vi điều chỉnh và áp dụng chế độ bồi thường, trợ cấp TNLĐ, còn theo Luật BHXH 2006 quy định thì chỉ những người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn và có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên, có tham gia BHXH bắt buộc mới thuộc phạm vi áp dụng chế độ TNLĐ. Điều này là thiếu công bằng, chưa đem lại sự thuận lợi cho người lao động trong việc giải quyết chế độ.

b. Cách xác định tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo như quy định hiện nay là chưa rõ ràng

Đây là vấn đề gây bất cập nhất, có khả năng phát sinh tiêu cực trong việc thực hiện chế độ trợ cấp này. Luật Bảo hiểm xã hội quy định tai nạn giao thông được coi là TNLĐ khi tai nạn giao thông xảy ra trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên. Tuy nhiên hiện nay các trường hợp tai nạn giao thông được coi là TNLĐ diễn ra hết sức phức tạp, khó quản lý. Theo quy định các vụ tai nạn giao thông được coi là TNLĐ do cảnh sát

giao thông nơi xảy ra tai nạn điều tra, lập biên bản, tuy nhiên quá trình thực hiện còn gặp vướng mắc, thời hạn điều tra thường chậm so với quy định, do vậy người lao động gặp khó khăn trong thực hiện thủ tục hưởng chế độ TNLĐ.

Đối với các trường hợp tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, nguyên nhân do địa hình, thời tiết, do đâm vào súc vật, do tự ngã mà không va chạm vào người hoặc phương tiện tham gia giao thông khác... nhưng không có biên bản của cảnh sát giao thông thì giải quyết thế nào để đảm bảo quyền lợi cho người lao động mà vẫn đúng quy định của pháp luật vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Vấn đề tai nạn giao thông mà người gây tai nạn vi phạm Luật Giao thông đường bộ thì không được xem là TNLĐ vẫn chưa được pháp điển hoá trong các văn bản pháp luật hiện hành.

Bên cạnh đó, trên thực tế vẫn xảy ra nhiều trường hợp người lao động bị mắc một số bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp hay môi trường lao động tác động tới sức khỏe người lao động nhưng lại không được hưởng quyền lợi như đối với các trường hợp bị mắc BNN do những bệnh này không có trong danh mục BNN đã được pháp luật quy định. Đây cũng là một trong những bất cập trong quy định của pháp luật, nên chưa bảo vệ được quyền lợi chính đánh của người lao động.

c. Việc quy định tỷ lệ đóng góp như nhau đối với mọi đơn vị sử dụng lao động là không phù hợp.

Hiện nay mức phí đóng TNLĐ, BNN vẫn quy định chung cho tất cả các ngành kinh tế (1% so với tổng quỹ tiền lương), không phân biệt ngành đó có tỷ lệ TNLĐ, BNN cao hay thấp. Đây là vấn đề không hợp lý cần phải được nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp, theo hướng phải xuất phát từ điều kiện lao động và môi trường lao động để làm căn cứ xác lập mức đóng, mức hưởng

của chế độ TNLĐ, BNN. Những ngành nghề có môi trường lao động độc hại hơn, điều kiện lao động kém hơn, nguy cơ xảy ra TNLĐ, BNN cao hơn thì mức đóng góp vào Quỹ TNLĐ, BNN của người sử dụng lao động cao hơn và ngược lại.

d. Cơ chế bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp còn hạn chế

(1) Nguồn bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động chưa hợp lý.

Hiện nay, chế độ bồi thường TNLĐ do người sử dụng lao động tự trả cho người lao động bị TNLĐ. Điều này sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho người lao động khi người sử dụng lao động cố tình không trả hoặc trả chậm, trả thiếu. Quỹ BHXH về trợ cấp TNLĐ, BNN cũng chưa khuyến khích được người sử dụng lao động tham gia tự nguyện đóng góp khi chỉ có thu mà không có sự đầu tư trở lại.

Cơ chế hiện hành bó buộc người sử dụng lao động, gây khó khăn cho họ trong chi trả trợ cấp TNLĐ. Nhiều doanh nghiệp muốn mua BHXH để giảm gánh nặng khi TNLĐ xảy ra, nhưng theo quy định hiện hành thì chỉ có chi phí bồi thường TNLĐ là được hạch toán vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông của doanh nghiệp, còn chi phí để mua bảo hiểm TNLĐ lại không được hạch toán.

Theo cơ chế bồi thường hiện nay thì người sử dụng lao động phải tự xoay sở, không có sự hỗ trợ của Nhà nước, vì vậy có nhiều trường hợp người lao động bị TNLĐ với mức độ thương tật như nhau nhưng ở các doanh nghiệp khác nhau nên nhận được mức bồi thường khác nhau, có khi chênh lệch đến 7, 8 lần.

Thời gian thực hiện thủ tục bồi thường kéo dài. Theo quy định để nhận được bồi thường thì người bị TNLĐ phải có biên bản điều tra TNLĐ và giấy xác nhận mức độ suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám định y

khoa, mà thời gian để hoàn thành việc điều tra vụ TNLĐ là từ 1 đến 40 ngày, nhưng thực tế thì thường kéo dài hơn. Đối với một số trường hợp cần phải giám định mức độ suy giảm khả năng lao động kéo dài thêm 1 đến 2 tháng nữa mới có kết quả giám định, vì vậy nếu người lao động muốn có tiền bồi thường sớm để khắc phục hậu quả do TNLĐ gây ra thì sẽ gặp khó khăn.

(2) Mức bồi thường, trợ cấp chưa đảm bảo bù đắp thiệt hại và ổn định đời sống cho người lao động bị TNLĐ, BNN.

- Bồi thường từ người sử dụng lao động:

Theo quy định của Bộ luật Lao động thì người sử dụng lao động chịu trách nhiệm chi trả chi phí y tế và tiền lương trong thời gian sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định thương tật và bồi thường hoặc trợ cấp theo mức độ suy giảm khả năng lao động. Việc quy định như vậy sẽ gắn trách nhiệm vật chất của người sử dụng lao động với tình trạng TNLĐ, BNN ở đơn vị đó, từ đó đòi hỏi người sử dụng lao động phải quan tâm tới công tác ATVSLĐ. Với các đơn vị có khả năng về tài chính thì quy định này sẽ giúp người lao động nhanh chóng khắc phục rủi ro, động viên tinh thần kịp thời. Tuy nhiên đối với các đơn vị việc trích lập quỹ dự phòng để khắc phục TNLĐ, BNN là khó khăn bởi vì TNLĐ, BNN là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được. Hơn nữa, với những đơn vị không có khả năng về tài chính hoặc để xảy ra TNLĐ, BNN nhiều thì sẽ chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ bồi thường đối với người lao động, thậm chí nhiều chủ sử dụng lao động còn trốn tránh trách nhiệm bằng cách không khai báo TNLĐ, BNN, không ký hợp đồng lao động, bỏ trốn hoặc thay đổi chủ doanh nghiệp, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Trong khi đó chi phí y tế trong thời gian điều trị không được bảo hiểm y tế thanh toán, điều đó sẽ gây khó khăn về kinh tế cho người lao động. Mặt khác, việc điều trị TNLĐ, BNN giữa những người bị TNLĐ, BNN là khác nhau, tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của từng đơn vị.

- Mức trợ cấp từ BHXH:

Mặc dù Luật BHXH ra đời đã quy định lại cách tính trợ cấp TNLĐ, BNN cho người lao động, tuy nhiên mức trợ cấp còn thấp, chưa đảm bảo đời sống. Hơn nữa, người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN khó có thể tìm được việc làm phù hợp để có thêm thu nhập, đặc biệt là với người có vết thương thực thể, bị mất hoặc hỏng chức năng hoạt động của bộ phận nào đó trên cơ thể. Mặc dù pháp luật lao động có khuyến khích người sử dụng lao động bố trí việc làm phù hợp cho người lao động, nhưng thực tế không phải người sử dụng lao động nào cũng muốn bố trí hoặc có thể bố trí việc làm phù hợp cho người lao động sau TNLĐ, BNN.

e. Quy định tỷ lệ hưởng trợ cấp của hai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp như nhau là chưa phù hợp

Theo Luật BHXH hiện hành, người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% được hưởng trợ cấp một lần, từ 31% trở lên được trợ cấp hàng tháng, từ 81% trở lên thì ngoài hưởng trợ cấp hàng tháng, người bị TNLĐ, BNN còn được hưởng chế độ người phục vụ. Quy định này đang có những vấn đề bất hợp lý sau đây:

Luật BHXH quy định tỷ lệ hưởng của hai chế độ TNLĐ và BNN như nhau là chưa phù hợp. Vì cùng một mức suy giảm khả năng lao động như nhau, nhưng mức độ ảnh hưởng của việc suy giảm khả năng lao động đến năng suất và hiệu quả công việc của người bị TNLĐ khác với người bị BNN, dẫn đến thu nhập của họ cũng bị ảnh hưởng khác nhau. Còn đối với những người bị BNN nặng, không còn khả năng lao động thì việc quy định cùng một mức suy giảm khả năng lao động của người bị TNLĐ và người bị BNN được hưởng cùng một tỷ lệ trợ cấp như nhau cũng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bị BNN. Theo các chuyên gia y tế, khi đã mắc BNN rồi sẽ

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 15/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí