Định Hướng Mở Rộng Và Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Hộ Sản Xuất Của Nhno&ptnt Việt Nam Trong Thời Gian Tới


Mở rộng đầu tư tín dụng đồng thời phát triển các dịch vụ Ngân hàng từng bước vững chắc an toàn và hiệu quả.

3.1.2. Định hướng mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Hộ sản xuất của NHNo&PTNT Việt Nam trong thời gian tới

Đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn nói chung, NHNo&PTNT Việt Nam tiếp tục vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường tín dụng nông thôn, gắn bó với hộ sản xuất. Thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn an toàn và hiệu quả, NHNo&PTNT Việt Nam tiếp tục cơ cấu lại một cách toàn diện, có chính sách khách hàng hợp lý. Chính sách này bảo đảm quyền lợi thoả đáng của người gửi tiền, đơn vị xuất nhập khẩu nông sản, lâm sản, hải sản,… và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đông đảo hộ nông dân nói chung. NHNo&PTNT Việt Nam sẽ thực hiện phân loại đối tượng khách hàng vay vốn hộ sản xuất theo tiêu chí A, B, C để có những cơ chế tín dụng phù hợp, thực hiện phân cấp, uỷ quyền phán quyết cho vay.

NHNo&PTNT Việt Nam cũng tiếp tục thực hiện chiến lược mở rộng mạng lưới xuống tận các xã, khu vực thị tứ để đảm bảo giao dịch vay vốn thuận tiện cho hộ nông dân. Đồng thời tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển mạng lưới phù hợp để huy động vốn nhàn rỗi ở các khu vực tiềm năng chuyển về cho vay ở vùng nông thôn. Cơ chế cho vay uỷ thác bán phần qua các tổ, nhóm của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp tiếp tục được hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và mở rộng, nhằm tạo thuận tiện cho việc vay vốn của hộ nông dân. Dự báo, trong giai đoạn 2015 - 2020, vốn tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam cung ứng cho khu vực nông thôn, hộ nông dân tiếp tục tăng trưởng cao, với tốc độ tăng bình quân 14 – 15%/năm, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển nông sản hàng hoá, nhất là các mặt hàng cho xuất khẩu.


3.1.3. Quan điểm trong tổ chức chỉ đạo nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất

- Mở rộng và tăng trưởng tín dụng hộ sản xuất và cá nhân đảm bảo an toàn, hiệu quả để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh.

- Tổ chức triển khai cho vay các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, như: chương trình cho vay ngành lương thực, thủy sản, cà phê, chăn nuôi, cho vay trồng cây cao su, tiêu, điều; chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; cho vay theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ (được thay thế bằng Nghị định 55/2015/NĐ-CP, có hiệu lực từ 25/7/2015), cho vay hỗ trợ lãi suất đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ; chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP, chính sách cho vay đối với chăn nuôi, thủy sản tại công văn số 1149/TTg-KTN, chính sách tín dụng theo chỉ đạo khác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn 2025.

- Đa dạng và mở rộng đối tượng đầu tư, thực hiện cho vay tất cả khách hàng nếu đủ điều kiện theo quy định hiện hành; đối với các chi nhánh trên địa bàn thành phố, thị xã mở rộng việc cho vay tiêu dùng khách hàng cá nhân (thực hiện tốt việc cho vay nhà ở xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

- Thực hiện đúng các quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh chủ động nắm bắt tình hình, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đề án cơ cấu ngành nông nghiệp của địa phương, phân tích đánh giá những thế mạnh, hạn chế của từng địa phương, nhu cầu vốn của từng ngành nghề, lĩnh vực để có giải pháp mở rộng tín dụng phù hợp. Chủ động xây dựng triển khai các gói sản phẩm tín dụng khép kín dựa trên chuỗi liên kết từ sản xuất, thu mua chế biến đến tiêu thụ và xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả và giảm chi phí hoạt động cho vay, như chuỗi liên kết giữa người


Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 15

sản xuất - kinh doanh - tiêu thụ sản phẩm, chuỗi liên kết trong lĩnh vực xây dựng giữa Ngân hàng - chủ đầu tư - nhà thầu - nhà cung cấp.

- Tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự hợp tác của các tổ chức chính trị, xã hội để tuyên truyền chính sách cho vay, các sản phẩm dịch vụ của NHNo&PTNT Việt Nam, triển khai tốt cho vay thông qua tổ nhóm và công tác thu hồi nợ vay. Đặc biệt quan tâm đến mở rộng cho vay các hộ vay mới để giữ vững thị phần tại nông thôn.

- Tổ chức phân tích thực trạng dư nợ, chủ động tháo gỡ khó khăn trong quan hệ tín dụng đối với khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, công khai hồ sơ thủ tục, lãi suất vay vốn đối với khách hàng. Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, xử lý nợ xấu, có phương án tháo gỡ khó khăn đối với khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT Việt Nam có khả năng phục hồi sản xuất kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, ngăn chặn việc sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng, kịp thời phát hiện và xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cho vay.

- Phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cập nhật thông tin, dự báo về xu hướng phát triển, cảnh báo các rủi ro về ngành nghề, cho vay vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, ngăn chặn việc sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng, kịp thời phát hiện và xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cho vay.

- Tập trung phân tích nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro đến từng khách hàng, để có giải pháp thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro, hạn chế nợ xấu phát sinh tăng thêm.

- Tổ chức tập huấn đến tất cả cán bộ tín dụng và cán bộ liên quan đến tín dụng, có cơ chế tín dụng, cơ chế bảo đảm cấp tín dụng, quy trình thẩm định, hướng dẫn cho vay mới được ban hành để nâng cao chất lượng, kỹ năng thẩm định, kiểm tra giám sát, quản lý rủi ro khoản vay, nâng cao chất lượng tín dụng.


3.1.4. Dự báo những thách thức về nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất nói riêng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

3.1.4.1. Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu và đem lại thu nhập lớn nhất nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro

Cùng với tiến trình thực hiện đề án tái cấu trúc hệ thống các TCTD Việt Nam, chính sách tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện để đáp ứng với môi trường kinh doanh trong nước trước những biến động của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.

Hiện nay và trong nhiều năm tới, hoạt động tín dụng vẫn là nghiệp vụ chủ yếu, mang lợi thu nhập lớn nhất cho các NHTM Việt Nam nói chung, trong đó có NHNo&PTNT Việt Nam, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro, phát sinh những những khoản nợ xấu. Hiện nay, trên 80% thu nhập hàng năm của NHNo&PTNT Việt Nam được hình thành từ hoạt động tín dụng nhưng thực tế chất lượng tín dụng chưa cao, một lượng vốn khá lớn thất thoát không thu hồi được, tỷ lệ nợ xấu, nợ có khả năng mất vốn vẫn khá cao.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng tín dụng đang được đặt ra cấp bách. Hệ thống Ngân hàng cần tiến hành phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế, đảm bảo phản ánh đúng chất lượng tín dụng hiện có của các NHTM, đưa tỷ lệ nợ xấu, nợ không có khả năng thu hồi ở mức an toàn cho phép.

Cùng với những thành tựu đạt được trong 26 năm qua, NHNo&PTNT Việt Nam vẫn còn một số tồn tại trong quản lý hoạt động tín dụng, thậm chí phải trả giá quá đắt cho những sai lầm trong quản lý kinh doanh, quản lý cán bộ làm công tác tín dụng.

3.1.4.2. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi việc quản lý chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng hộ sản xuất nói riêng phải phù hợp với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là một hướng đi đúng đắn và quan trọng làm tiền đề


cho việc tạo dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế thành công đem lại cho Việt Nam khá nhiều cơ hội như mở rộng thị trường, tận dụng những kinh nghiệm về quản lý, tiết kiệm thời gian và nhân lực trên cơ sở kế thừa thành tựu khoa học của các nước đi trước, tăng khả năng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật công nghệ.

Đối với ngành tài chính ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là năng cao năng lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng. Hội nhập quốc tế còn mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế. Đồng thời các Ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh ngiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài.

Hội nhập kinh tế quốc tế là có sự tích cực hơn của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ Ngân hàng, quản trị Ngân hàng, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn và phát triển các dịch vụ Ngân hàng.

Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra khá nhiều thuận lợi và cơ hội cho các Ngân hàng Việt Nam phát triển thành một hệ thống Ngân hàng hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả và phù hợp với các thông lệ quốc tế.

3.1.4.3. Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng hộ sản xuất nói riêng ngày càng gia tăng

Thị trường tín dụng (cả bán buôn và bán lẻ), cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên gay gắt hơn khi NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng và các NHTM trong nước nói chung sẽ phải đối mặt với sự xuất hiện của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã có một quá trình thâm nhập, tìm hiểu và đã hiểu rõ thị trường Việt nam. Từ đó các Ngân hàng nước ngoài sẽ gia tăng các áp lực cạnh tranh đối với các Ngân hàng trong nước do các thế mạnh về


vốn và công nghệ; bề dày hoạt động và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế,…. Các NHTM trong nước cũng như các TCTD có vốn nước ngoài mở rộng cạnh tranh hoạt động tín dụng, kể cả hộ gia đình, hộ sản xuất bằng các hình thức phù hợp.

3.1.4.4. Yêu cầu đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng tiện ích đáp ứng nhu cầu khách hàng nói chung, hộ sản xuất nói riêng

Hiện nay mặc dù chiến lược phát triển kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam đã chú trọng đến công tác mở rộng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro. Tuy nhiên danh mục sản phẩm còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua Ngân hàng, môi giới kinh doanh, bao thanh toán, tư vấn dự án chưa phát triển, tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho Ngân hàng.

3.1.4.5. Chất lượng nguồn nhân lực nói chung và cho hoạt động tín dụng hộ sản xuất nói riêng của NHNo&PTNT Việt Nam vẫn là vấn đề cần được giải quyết có tính cấp bách

Về nhân sự: NHNo&PTNT Việt Nam có số lượng cán bộ, nhân viên khoảng

40.000 người, trình độ chuyên môn ngày được nâng cao. Tuy nhiên vẫn còn nhiều nhân viên chưa đáp ứng được các yêu cầu công việc trong quá trình hội nhập dù công tác tuyển dụng đã có nhiều đổi mới như tiêu chuẩn và phương thức tuyển dụng. Mặt khác cơ chế khuyến khích, thu hút nhân tài chưa thực sự được quan tâm và tạo điều kiện, cơ hội bình đẳng cho mọi cán bộ phát huy khả năng của mình. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ tại nhiều chi nhánh còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản lý hiện đại.

3.1.4.6. Khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh NHNo&PTNT Việt Nam cũng như của các chi nhánh vẫn còn thấp và có khoảng cách so với các NHTM hàng đầu của Việt Nam

Về khả năng sinh lời: khả năng sinh lời còn thấp, thể hiện qua việc tổng tài sản lớn, doanh thu cao nhưng lợi nhuận thuần còn thấp, có nhiều chi nhánh làm ăn thua lỗ, âm quỹ thu nhập trong nhiều năm liền.


Tuy nhiên, dù còn bộc lộ những nhược điểm như trên nhưng NHNo&PTNT Việt Nam vẫn có những lợi thế mà nhiều NHTM khác không có. Đó là mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên tất cả các tỉnh thành trong cả nước, với trên 2.200 chi nhánh và phòng giao dịch, có mối quan hệ khách hàng truyền thống qua nhiều năm, am hiểu phong tục các địa phương. Về cơ sở vật chất, gần như toàn bộ các trụ sở chi nhánh, phòng giao dịch đều khang trang, toạ lạc tại những vị trí thuận lợi trong kinh doanh. Vấn đề là làm thế nào để biến những lợi thế trên thành ưu thế cạnh tranh là việc làm mà NHNo&PTNT Việt Nam cần phải nghiên cứu, tìm tòi nhằm tìm cho mình một hướng đi thích hợp để phát triển.

3.1.4.7. Rủi ro tín dụng hộ sản xuất còn cao nhưng bảo hiểm chưa phát triển

Hộ sản xuất vẫn chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, lâm nghiệp,…. Hoạt động sản xuất, kinh doanh, chế biến, đánh bắt, nuôi trông cũng như các mặt hàng nông sản phẩm vẫn còn gặp nhiều rủi ro lớn bởi những biến động của thị trường trong nước, thị trường quốc tế, bởi thiên tai,… trong khi đó bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển. Thực trạng đó là những thách thức lớn về chất lượng tín dụng hộ sản xuất của NHNo&PTNT Việt Nam.

3.1.4.8. Rủi ro tín dụng hộ sản xuất càng cao khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào TPP.

Thách thức của nông nghiệp khi Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác thươngmại xuyên Thái Bình Dương (TPP) là rất lớn. Tất nhiên là Việt Nam sẽ có lợi thếkhi nhiều thành viên TPP là thị trường tiêu thụ nông sản lớn và đang có xu hướngmở rộng hơn như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Singapore…Song điều này cũng đòi hỏinhu cầu vốn tín dụng NHTM nói chung và NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng rấtlớn Hiện nay nền nông nghiệp nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, quy mô hộ gia đình là chủ yếu, xuất khẩu nông sản ở dạng nguyên liệu thô

Thêm vào đó, cơ hội giảm thuế quan chung cho tất cả các đối tác cũng dẫn đến tăng lượng hàng nhập khẩu nông sản hàng hóa từ các nước thành viên TPP vào Việt Nam với giá cạnh tranh, tạo áp lực cho sản xuất trong nước.

Trong đó, việc áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và truy xuất


nguồn gốc trong TPP sẽ gây khó khăn cho việc xuất khẩu nông sản Việt Nam. Ngành chăn nuôi trong nước sẽ phải đối mặt với phá sản sau TPP, tuy vậy vẫn có nhiều trang trại, hộ chăn nuôi đang tích cực mở rộng quy mô, cải tạo quy trình chăn nuôi để giảm giá thành, tìm chỗ đứng trong thị trường rộng mở sắp tới.

Những vấn đề trên vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với chất lượng tín dụng HSX của NHNo&PTNT Việt Nam trong những năm tới.

3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

3.2.1. Mạnh dạn mở rộng mạng lưới ở nông thôn kết hợp với thực hiện hạn mức tín dụng thấu chi

- Cơ sở của giải pháp này:

+ Tại mục 2.1.2.2. của Chương 2, Luận án đã trình bày những lý do các NHTM CP đang cạnh tranh mở rộng cho vay Hộ sản xuất ở nông thôn, đó là: Hộ gia đình người nông dân Việt Nam phần lớn có nguồn thu tổng hợp, thường xuyên,…; món vay các hộ nông dân phần lớn là nhỏ, chỉ vài chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng, hiếm có món vay lớn vài tỷ đồng, thậm chí có nhu cầu chi tiêu, nhu cầu giải ngân vài trăm ngàn đồng mỗi lần; Hơn nữa, người nông dân với bản tính trọng chữ tín, sống gắn bó nhiều đời với đất đai, ruộng vườn ở quê hương. Các hộ nông dân cũng có mối quan hệ họ hàng xóm rất chặt chẽ, họ có tâm lý sợ mất uy tín, mang tiếng với cộng đồng địa phương,… hầu hết các hộ nông dân đều là hội viên của Hội nông dân,… Do đó việc áp dụng hạn mức thấu chi phù hợp với nhu cầu thường xuyên gửi và rút tiền của hộ nông dân. Khi có nguồn thu, có tiền nhàn rỗi thì nộp vào tài khoản thấu chi; khi có nhu cầu vay, giải ngân, chi tiêu thì rút tiền từ tài khoản thấu chi.

+ Trong mục 2.3.2. và 2.3.3 của Chương 2 Luận án đã trình bày rõ: hoạt động của các NHTM nói chung, đặc biệt là NHNo&PTNT Việt Nam chưa đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu vốn cho Hộ sản xuất, thủ tục vay và mạng lưới giao dịch


chưa thuận tiện,…Do đó việc NHNo&PTNT Việt Nam mở rộng mạng lưới kết hợp với thực hiện hạn mức thấu chi sẽ khắc phục được những hạn chế đã nêu.

+ Đặc điểm kinh tế - xã hội của Hộ sản xuất nêu ở Chương 1, cũng như những kết quả đạt được về cho vay vốn hộ sản xuất nêu ở chương 2.

- Lợi ích và những đề xuất cụ thể khi thực hiện giải pháp này:

Thực hiện giải pháp này sẽ tạo điều kiện cho NHNo&PTNT Việt Nam tiếp tục mở rộng mạng lưới, mở rộng quy mô cho vay nhưng đồng thời tiết kiệm chi phí trong hoạt động tín dụng và chi phí vay vốn của hộ sản xuất, nhưng vẫn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Mục đích này luận án xin được phân tích và luận giải dưới đây.

NHNo&PTNT Việt Nam nên tiếp tục mạnh dạn mở rộng mạng lưới đến các vùng nông thôn để mở rộng cho vay hộ sản xuất có chất lượng. Trước hết nên tập trung mở rộng mỗi xã ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng Bắc Bộ có một phòng giao dịch, với biên chế khoảng 4-5 người, sau đó nếu thành công, có hiệu quả thì mở tiếp tới các xã vùng trung du phía Bắc, khu vực miền Trung, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên,…Các phòng giao dịch này có thể phải chấp nhận lỗ trong hạch toán chi phí 2 - 3 năm đầu. NHNo&PTNT Việt Nam có thể áp dụng chính sách trong mỗi phòng giao dịch có 2 - 3 biên chế của Ngân hàng, 1-2 người làm hợp đồng, cộng tác viên, thường là tuyển dụng người ở địa phương có trình độ đại học hay cao đẳng về kinh tế, tài chính, Ngân hàng. Cách làm như vậy sẽ giảm áp lực về tăng biên chế hiện tại của NHNo&PTNT Việt Nam.

Trong những năm tới NHNo&PTNT Việt Nam chưa phải cổ phần hoá, do đó với chiến lược mở rộng mạng lưới về nông thôn, xây dựng và phát triển nền khách hàng bền vững là hộ sản xuất, bán chéo các sản phẩm dịch vụ: tiền gửi, dịch vụ thẻ, chuyển tiền,… là đối tượng khách hàng hết sức tiềm năng và đông đảo này là yêu cầu hết sức cần thiết có tính cấp bách cả trước mắt và lâu dài. Về chiến lược cạnh tranh, đây là biện pháp chủ động chiếm lĩnh thị trường nông thôn, chủ động thu hút khách hàng hộ sản xuất,… trước khi các NHTM khác hướng tới. Song về hướng


khác, cũng tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường tín dụng hộ sản xuất trước các đối thủ là Quỹ tín dụng nhân dân, một số NHTM cổ phần khác,…

Về chức năng hoạt động, các phòng giao dịch nhận tiền gửi tại chỗ, tìm kiếm khách hàng và giải ngân cho vay theo hạn mức tín dụng được phân cấp, kết hợp với làm dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, có thể sau này nâng lên chức năng dịch vụ chi trả kiều hối ở những nơi có hoạt động này khá. Thậm chí một số phòng giao dịch ở xã được lắp đặt máy ATM.

Một hướng phát triển nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất đó là: các phòng giao dịch thiết lập tài khoản thấu chi, với hạn mức thấu chi như quy định cho vay không cần tài sản theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP. Theo đó, gia đình hộ sản xuất có thu nhập thì nộp vào tài khoản và được khấu trừ tự động theo số dư nợ thấu chi; đồng thời khi có nhu cầu rút tiền thì nằm trong hạn mức thấu chi. Nghiệp vụ này vừa tiện lợi cho NHNo&PTNT Việt Nam, vừa tiện lợi cho hộ sản xuất, đảm bảo chất lượng cho cả 2 bên.

Phát triển thêm chức năng tiếp theo của Phòng giao dịch xã, đó là tiến tới làm dịch vụ cho Ngân hàng chính sách xã hội. Bởi vì như hiện nay, Ngân hàng chính sách xã hội thành lập điểm giao dịch tại các xã, với lịch thời gian là mỗi tháng đến giao dịch 1-2 lần, cách làm này có những bất tiện cho cả 2 bên.

Vì vậy tiến tới, các gia đình hộ nghèo, đối tượng chính sách có quan hệ với Ngân hàng chính sách xã hội, thực hiện mở tài khoản tại Phòng giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam. Phòng giao dịch làm dịch vụ giải ngân, thu nợ bằng hình thức hộ gia đình khi có thu nhập nhỏ lẻ bất cứ lúc nào, nộp vào tài khoản, đồng thời được tự động chuyển sang khấu trừ tại tài khoản tiền vay; hoặc là định kỳ 1 tuần, 2 tuần, tiền của hộ vay Ngân hàng chính sách xã hội đủ lớn được chuyển về tài khoản tại Ngân hàng chính sách xã hội; hoặc một hình thức tối ưu hơn cho cả 3 bên do hai Ngân hàng thống nhất bàn bạc.

Hình thức nói trên tiết kiệm chi phí cho Ngân hàng chính sách xã hội, tiết kiệm chi phí và tiện lợi cho hộ nghèo, hộ gia đình đối tượng chính sách. Vấn đề này càng có tính cấp bách vì Ngân hàng chính sách xã hội tiếp tục phát triển cả về


chương trình cho vay, đối tượng cho vay và hạn mức cho vay. Các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách không phải để tiền ở nhà, mất an toàn, chờ đến ngày giao dịch tại xã của Ngân hàng chính sách xã hội mới tập trung đến trả nợ và lãi.

Một bước tiến tiếp theo nữa, đó là phòng giao dịch xã của NHNo&PTNT Việt Nam làm dịch vụ cho Kho bạc nhà nước chi trả tiền cho các đối tượng được hưởng lương, hưởng trợ cấp từ ngân sách, làm dịch vụ thu thuế, thu tiền phạt ở địa phương,…

Đề xuất nói trên đành rằng không dễ thực hiện nhưng không phải là không có tính khả thi, vấn đề là quyết tâm của NHNo&PTNT Việt Nam, sự điều hành và kiên quyết của NHNN, thậm chí là tham mưu cho Chính phủ, có sự quyết tâm của Chính phủ, nhất là trong điều hành phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá, phối hợp hoạt động Ngân hàng và hoạt động tài chính,…

Thành lập Phòng giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam ở xã phải giải quyết một loạt vấn đề về đất cho xây dựng trụ sở hay thuê địa điểm giao dịch, đầu tư cải tạo hay xây dựng Phòng giao dịch, giải quyết vấn đề điều chuyển tiền mặt, bố trí cán bộ,… Song Agrinbank cần có lộ trình chặt chẽ, triển khai làm dần từng bước, trong 2-3 năm và có cách xử lý linh hoạt thì tin chắc rằng sẽ thực hiện được mục tiêu phát triển mạng lưới nói trên của NHNo&PTNT Việt Nam.

3.2.2. Nâng cao nhận thức và chỉ đạo chặt chẽ trong thực hiện mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất

NHNo&PTNT Việt Nam cần chỉ đạo điều hành theo hướng tập trung nguồn vốn để tăng trưởng tín dụng, ưu tiên lĩnh vực, ngành nghề nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, đảm bảo đủ nguồn vốn phục vụ kịp thời cho Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Mở rộng và tăng trưởng tín dụng hộ sản xuất và cá nhân đảm bảo an toàn, hiệu quả để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh.

NHNo&PTNT Việt Nam cần nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống, đồng thời tiếp tục chủ động tổ chức triển khai cho vay các chương trình, chính sách tín


dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước như: chương trình cho vay ngành lương thực, thủy sản, cà phê, chăn nuôi, cho vay trồng cây cao su, tiêu, điều; chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; cho vay theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ, cho vay hỗ trợ lãi suất đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ; chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP, chính sách cho vay đối với chăn nuôi, thủy sản tại công văn số 1149/TTg-KTN, chính sách tín dụng theo chỉ đạo khác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã được ban hành trong năm 2014, triển khai thực hiện từ năm 2014 và các năm tiếp theo.

NHNo&PTNT Việt Nam chỉ đạo, hỗ trợ các chi nhánh tỉnh, thành phố và đơn vị trực thuộc cần tiếp tục đa dạng và mở rộng đối tượng đầu tư của hộ sản xuất, thực hiện cho vay tất cả khách hàng là hộ sản xuất, đối tượng khách hàng khác nếu đủ điều kiện theo quy định hiện hành. Đối với các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam trên địa bàn thành phố, thị xã mở rộng việc cho vay tiêu dùng khách hàng cá nhân, hộ sản xuất ở đô thị, thực hiện tốt việc cho vay nhà ở xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN.

Các chi nhánh và đơn vị trực thuộc trong toàn hệ thống cần thường xuyên thực hiện đúng các quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam. Các chi nhánh chủ động nắm bắt tình hình, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đề án cơ cấu ngành nông nghiệp của địa phương, phân tích đánh giá những thế mạnh, hạn chế của từng địa phương, nhu cầu vốn của từng ngành nghề, lĩnh vực để có giải pháp mở rộng tín dụng phù hợp. Chủ động xây dựng triển khai các gói sản phẩm tín dụng khép kín mà lòng cốt là hộ sản xuất dựa trên chuỗi liên kết từ sản xuất, thu mua chế biến đến tiêu thụ và xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả và giảm chi phí hoạt động cho vay, như chuỗi liên kết giữa người sản xuất - kinh doanh - tiêu thụ sản phẩm, chuỗi liên kết trong lĩnh vực xây dựng giữa Ngân hàng - chủ đầu tư - nhà thầu - nhà cung cấp.

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí