Các chi nhánh cần thường xuyên tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự hợp tác của các tổ chức chính trị, xã hội để tuyên truyền chính sách cho vay, các sản phẩm dịch vụ của NHNo&PTNT Việt Nam, triển khai tốt cho vay thông qua tổ nhóm và công tác thu hồi nợ vay. Đặc biệt quan tâm đến mở rộng cho vay các hộ vay mới để giữ vững thị phần tại nông thôn.
Các chi nhánh cấp 1, chi nhánh cấp 2,... cần thường xuyên tổ chức phân tích thực trạng dư nợ, chủ động tháo gỡ khó khăn trong quan hệ tín dụng đối với khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, công khai hồ sơ thủ tục, lãi suất vay vốn đối với khách hàng. Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, xử lý nợ xấu, có phương án tháo gỡ khó khăn đối với khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT Việt Nam có khả năng phục hồi sản xuất kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh.
Từ hội sở chính NHNo&PTNT Việt Nam đến các đơn vị cơ sở cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, ngăn chặn việc sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng, kịp thời phát hiện và xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cho vay.
Các phòng ban hội sở chính của NHNo&PTNT Việt Nam cần chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cập nhật thông tin, dự báo về xu hướng phát triển, cảnh báo các rủi ro về ngành nghề, cây con để giúp việc cho vay vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả.
Từ hội sở chính NHNo&PTNT Việt Nam đến các đơn vị cơ sở tập trung phân tích nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro đến từng khách hàng, để có giải pháp thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro, hạn chế nợ xấu phát sinh tăng thêm.
Tổ chức tập huấn đến tất cả cán bộ tín dụng và cán bộ liên quan đến tín dụng các cơ chế tín dụng, cơ chế bảo đảm cấp tín dụng, quy trình thẩm định, hướng dẫn cho vay mới được ban hành để nâng cao chất lượng, kỹ năng thẩm định, kiểm tra giám sát, quản lý rủi ro khoản vay, nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.3. Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng gắn với hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng
3.2.3.1. Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Những Nguyên Nhân Từ Phía Khách Hàng Hộ Sản Xuất
- Mục Tiêu, Định Hướng Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Định Hướng Mở Rộng Và Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Hộ Sản Xuất Của Nhno&ptnt Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Đa Dạng Hóa Các Hình Thức Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Nông Nghiệp- Nông Thôn Nói Chung Và Kinh Tế Hộ Sản Xuất Nói Riêng
- Tổ Chức Quốc Tế Về Tiêu Chuẩn Hóa, (1987) Tiêu Chuẩn Iso 8402:2000 (Quality Management And Quality Asurance) (Trích 1987/iso8402) , Nhà Xuất Bản Khoa Học & Kỹ Thuật
- Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 19
Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.
- Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng và coi đây là công cụ chiến lược để duy trì tính ổn định, bền vững và tăng khả năng sinh lời trong họat động tín dụng.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, rủi ro trong hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng ngày càng nhiều với khối lượng lớn, do vậy rủi ro hoạt động Ngân hàng sẽ không thể lường được nếu không áp dụng quản trị rủi ro và quản trị rủi ro tín dụng.
Theo các điều khoản của hiệp định Basel II, áp dụng quản trị rủi ro trong hoạt động Ngân hàng được coi là những thỏa thuận bắt buộc. Muốn trở thành “Bank for Intenational settlement (BIS)” phải áp dụng hệ thống quản trị rủi ro bao gồm khâu quan trọng là: xác định rủi ro, đo lường rủi ro và cuối cùng là kiểm soát rủi ro. Những nội dụng cơ bản của quản trị rủi ro tín dụng gồm:
+ Xác lập những rủi ro hiện tại và tương lai để có giải pháp hạn chế và giảm thấp rủi ro.
+ Xây dựng và thực hiện các chính sách, quy trình tín dụng rõ ràng, thống nhất với các thông lệ quốc tế.
+ Kiểm tra và giám sát tín dụng để nhận biết sớm rủi ro tín dụng.
+ Xây dựng và thực hiện thống nhất hệ thống chấm điểm và xếp hạng khách hàng để đánh giá rủi ro tiềm ẩn.
+ Gắn trách nhiệm cá nhân thực hiện cho vay đối với chất lượng tín dụng qua chính sách và cơ chế.
+ Phân loại cán bộ cho vay theo các cấp độ và chuẩn mực cụ thể.
+ Quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh ngoại bảng liên quan đến cấp tín dụng. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt,
đồng bộ đối với tất cả các khoản vay và liên tục từ trước trong và sau khi cho vay theo một quy trình chặt chẽ. Quy trình và nội dung quản trị rủi ro tín dụng phải được
áp dụng theo tính đặc thù của các kênh tín dụng và theo từng đối tượng đầu tư được quan tâm.
- Thực hiện nghiêm việc phân loại nợ theo định kỳ và trích lập dư phòng rủi ro đầy đủ.
Theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước:
+ Ít nhất mỗi quý một lần, trong thời hạn 15 ngày làm việc của tháng đầu của quý tiếp theo, tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ gốc và trích lập dư phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý (tháng) trước. Riêng đối với quý IV, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng 12, tổ chức tín dụng thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đế thời điểm cuối ngày 30 tháng 11.
+ Đối với các khoản nợ xấu, tổ chức tín dụng phải thực hiện việc phân loại nợ, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trên cơ sở hàng tháng để phục vụ cho công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng.
- Thu hồi tốt nợ đọng.
NHNo&PTNT cơ sở cần có biện pháp thu hồi tốt nợ tồn đọng nhiều năm qua nhất là những khoản nợ mới xử lý rủi ro trong thời gian gần đây. Một mặt là đem lại thu nhập cho Ngân hàng. Mặt khác, nhằm tránh tình trạng lây lan trong khách hàng vay chây ì, ỷ lại không trả nợ. Các biện pháp có thể là:
+ Cho khách hàng trả gốc trước, trả lãi sau đối với những khách hàng xét thấy có khả năng phục hồi sản xuất
+ Cho khách hàng trả dần nếu khách hàng có thu nhập từ các nguồn khác.
+ Phối hợp với các cơ quan, ban ngành địa phương để có hướng thu hồi thích hợp và hiệu quả.
- Khai thác thông tin triệt để, chính xác khi đầu tư tín dụng
Các chi nhánh NHNo&PTNT cơ sở cần coi trọng việc khai thác thông tin từ nhiều phía nhằm đánh giá đầy đủ chính xác tình hình thị trường tiêu thụ nông sản phẩm, năng lực tài chính, khả năng quản lý, tín nhiệm của khách hàng để từ đó quyết định đầu tư vốn một cách có hiệu quả.
3.2.3.2. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng
Để có thể mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế hộ, quy trình tín dụng hiện thời của NHNo&PTNT Việt Nam cần phải được cải tiến những vấn đề sau:
- Làm tốt việc điều tra, khảo sát, xác lập hồ sơ kinh tế địa phương.
Trong quy trình tín dụng, đây là công việc quan trọng trong quá trình kiểm tra trước khi cho vay. Cán bộ tín dụng phải điều tra, khảo sát địa bàn được phân công và phải làm việc thực sự có trách nhiệm và hiệu quả. Kết quả của bước này sẽ là cơ sở cho việc xác lập hồ sơ kinh tế địa phương, khởi đầu cho việc đầu tư tín dụng và xây dựng kế hoạch kinh doanh năm hay một định kỳ. Những yêu cầu cơ bản là:
+ Bám sát những chủ trương, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của cấp ủy, Chính quyền địa phương.
+ Hồ sơ kinh tế địa phương phải được bổ sung, cập nhật những diễn biến kinh tế xã hội hàng năm về một số nội dung cơ bản: chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tình hình phát triển ngành nghề, tổng số hộ cần vay, nhu cầu vốn tín dụng…
- Xây dựng định mức cho vay và xây dựng mô hình phù hợp.
Định mức cho vay theo các mô hình này phải cập nhật thường xuyên ít nhất một năm một lần để đảm bảo độ chính xác do yếu tố tăng giảm giá trên thị trường. Riêng phần lượng thì không thay đổi nhiều, chỉ có sự thay đổi khi có những giải pháp khoa học kỹ thuật mới áp dụng vào sản xuất. Khi xác định mô hình mẫu xong phải được Ban Giám đốc các chi nhánh duyệt trước khi áp dụng. Xây dựng các dự án mẫu dựa theo các định mức kinh tế, kỹ thuật là giải pháp nhằm giảm bớt khối lượng công việc cho cán bộ tín dụng đồng thời đảm bảo tính khoa học và xác thực trong việc xác định giá trị của dự án, tính khả thi của dự án.
- Hạn mức tín dụng của từng khách hàng phải được xác lập dựa trên đánh giá cụ thể về nhu cầu vay, khả năng trả nợ, tài sản bảo đảm tiền vay, uy tín, chấm điểm và xếp hạng khách hàng,...
Hạn mức tín dụng được bố trí cho từng khách hàng nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng theo từng thời kỳ, do vậy, ngoài giá trị tài sản bảo đảm, cần áp dụng kỹ thuật tính toán chính xác để xác định những yếu tố kinh tế như các dòng tiền trong hoạt động kinh doanh, dòng tiền chung, dòng tiền trả nợ của dự án, khả năng tài chính của khách hàng, thị trường của sản phẩm… để xác định đúng hạn mức tín dụng cần thiết, tránh sự áp đặt chủ quan trong xác định nhu cầu, dễ dẫn đến rủi ro trong đầu tư.
- Chấn chỉnh chất lượng kiểm tra sau khi cho vay ở cơ sở.
Kiểm tra định kỳ, đột xuất và được tiến hành với tất cả các món vay. Tuy nhiên, đối với hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp do đặc thù về số lượng khoản vay nhiều, việc kiểm tra sau khi vay cần có những quy định riêng cho phù hợp.
Đối với cho vay kinh tế hộ, với số lượng lớn khách hàng vay, cần khai thác lợi thế của việc cho vay qua tổ, ủy nhiệm cho tổ trưởng thực hiện kiểm tra sau cho vay (đối với những món vay nhỏ) gắn trách nhiệm với quyền lợi.
Cần quy định thành điều khoản rõ ràng trong hợp đồng dịch vụ với tổ trưởng tổ vay vốn, trong quy ước của tổ vay vốn; phổ biến rộng rãi trong khách hàng vay, tập huấn cách thức kiểm tra và biện pháp xử lý để bảo đảm chất lượng của việc kiểm tra sau của tổ trưởng tổ vay vốn.
Cần kết hợp với tình hình trả nợ gốc, lãi và những nguồn thông tin khác để thực hiện phân loại nợ, qua đó xác định trọng tâm, tần xuất kiểm tra phù hợp.
- Cho vay khách hàng theo quy trình khép kín và đồng bộ.
Do tính đa dạng trong sản xuất kinh doanh của hầu hết khách hàng dẫn đến tính liên kết và ràng buộc các khoản vay với nhau như vay về chi phí sản xuất dẫn đến nhu cầu khoản vay về dự trữ hàng tồn kho, chi phí tiêu thụ sản phẩm…
Việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng phải được tiến hành một cách đồng bộ và khép kín, cho vay nội tệ gắn với hoạt động ngoại tệ để tăng hiệu quả đầu
tư, quản lý vốn vay trong cả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
Ngoài ra, việc sản xuất ra sản phẩm hàng hóa bao gồm nhiều khâu, cần tổ chức đầu tư tín dụng đồng bộ các khâu (ví dụ: cho vay vùng nguyên liệu, cho vay thu mua chế biến, cho vay xuất khẩu…) để nâng cao chất lượng đầu tư và hỗ trợ đắc lực cho sản xuất. NHNo&PTNT Việt Nam cần phải quan tâm thực hiện và phối hợp tốt với các chi nhánh NHNo&PTNT khác để triển khai mạnh mẽ, tạo cơ sở để việc đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ an toàn, thuận lợi.
- Làm tốt việc xây dựng, khai thác hệ thống thông tin tín dụng
Thực tế cho thấy phân bổ tín dụng kém hiệu quả một phần do các tổ chức tín dụng thiếu thông tin về người vay. Thế chấp thường được sử dụng làm công cụ để bảo đảm khoản cho vay. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với hộ sản xuất, đặc biệt là đối với các hộ nông dân và doanh nghiệp nhỏ và vừa ở khu vực nông thôn vì họ thường không có tài sản cố định hoặc không có đủ giấy tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một giải pháp khác hiệu quả hơn đang được các tổ chức cho vay ở nhiều nước sử dụng là chỉ phục vụ những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và theo dõi họ thường xuyên tình hình tài chính của họ. Giải pháp này đòi hỏi tổ chức cho vay phải nắm được thông tin về lịch sử thanh toán của khách hàng tiềm năng khi ra quyết định cho vay và xác định lãi suất vay. Hiện nay việc tích lũy số liệu lịch sử của khách hàng hộ không được thực hiện đều đặn, không được bàn giao khi thay đổi địa bàn, cán bộ tín dụng ít sử dụng số liệu lịch sử từ hệ thống lưu trữ của NHNo&PTNT Việt Nam (vốn đã không được khoa học, không đầy đủ) đang là tồn tại cần được khắc phục đối với hệ thống tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Nhiều hộ sản xuất là đối tượng khách hàng thường xuyên, có tín nhiệm trong quan hệ vay vốn với NHNo&PTNT Việt Nam. Nhưng mỗi lần vay vốn mới, hầu như lại làm hồ sơ mới lại từ đầu gây tốn kém, mất thời gian cho cả Ngân hàng và người vay. Vì vậy cần có biện pháp cụ thể để mỗi lần vay vốn mới, hộ sản xuất
chỉ cần kê khai, khai báo những biến động mới về tài sản và các vấn đề khác có liên quan. Nên sử dụng dạng sổ vay vốn, sử dụng lâu dài.
- Cần nâng mức cho vay không cần tài sản thế chấp cho các hộ trong thời gian qua vay trả nợ sòng phẳng, không phát sinh nợ xấu đối với Ngân hàng. Kết hợp với đó là thực hiện từng phần những nội dung nêu trong Sổ tay tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam.
Đối với riêng các chi nhánh NHNo&PTNT các huyện tại nhiều vùng đồng bằng sông Cửu Long cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất gần như 100% món vay đều phải có tài sản làm bảo đảm. Do vậy các hộ tuy vay dưới 50 triệu là không áp dụng bảo đảm tài sản nhưng thường thì NHNo&PTNT nhiều huyện yêu cầu vẫn nộp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất để hạn chế vay nhiều TCTD, khi đó NHNo&PTNT huyện vẫn định giá giống như tài sản thế chấp từ đó căn cứ vào giá trị tài sản này để cho vay.
NHNo&PTNT nhiều huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay và tài sản thế chấp của bên thứ ba, còn những hình thức bảo đảm khác như bảo đảm tài sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm bằng hợp đồng tiêu thụ,… thì chưa được áp dụng rộng rãi do chưa có những quy định, hướng dẫn cụ thể. Hướng tới, NHNo&PTNT các huyện vùng đông bằng sông Cửu Long cần phải mở rộng hình thức cho vay không có bảo đảm tài sản.
3.2.3.3. Giảm bớt thủ tục giấy tờ, chi phí giao dịch cho hộ nông dân
Nhiều trường hợp chi phí giao dịch cho các món vay nhỏ chiếm một tỷ trọng đáng kể đã đẩy lãi suất cho vay thực tế lên rất cao, các thủ tục giấy tờ rườm rà, phức tạp đã ảnh hưởng đến việc sản xuất kịp thời theo tiến độ. Để giải quyết vấn đề này cần có những qui định cụ thể của Nhà nước như: miễn tất cả các loại phí cho hộ nông dân khi làm thủ tục vay vốn. NHNo&PTNT Việt Nam cũng cần nghiên cứu giảm các loại giấy tờ, thủ tục không cần thiết trong trình nghiệp vụ cho vay. Giải quyết được vấn đề này sẽ có tác dụng mở rộng quan hệ tín dụng đối với kinh tế hộ, nhằm tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận vốn Ngân hàng dễ dàng hơn, chủ động
hơn trong sản xuất và đó cũng là thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế hộ phát triển đối với nông nghiệp- nông thôn.
3.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ
Nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng mới đáp ứng được yêu cầu tiếp cận, thẩm định các dự án sản xuất, tính toán tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng một cách chính xác và nhanh chóng, cũng như hổ trợ các hộ sản xuất trong khâu lập phương án và phân tích tài chính. Hiện nay trình độ cán bộ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam không đồng đều và chưa cao, chưa đạt chuẩn theo quy định của các Ngân hàng do có một số cán bộ học chuyên ngành khác quá xa chuyên ngành Ngân hàng, mặc dù có đào tạo nhưng trong công tác cũng còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết như thiếu sự nhanh nhạy và linh hoạt trước những yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Về nhận thức, cán bộ tín dụng không nên quá xem nặng việc phải có tài sản thế chấp, cầm cố, xem đó như là điều kiện quyết định khi cho vay. Điều cốt lỗi là việc cho vay phải dựa trên phương án sản xuất có tính khả thi, có khả năng hoàn trả nợ vay. Để làm được điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải đủ khả năng thẩm định dự án một cách toàn diện, lường được các rủi ro, trên cơ sở đó quyết định mức cho vay và lựa chọn hình thức bảo đảm tiền vay. Trình độ cán bộ tín dụng được nâng cao có thể xem là chìa khóa để mở rộng việc áp dụng các phương thức cho vay phù hợp với kinh tế hộ nông nghiệp cũng như mở rộng rào cản thế chấp tài sản.
Cùng với việc nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng thì giáo dục, rèn luyện về đạo đức nghề nghiệp cần được đưa lên hàng đầu, vì việc định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay nhất là giá trị quyền sử dụng đất là vấn đề nhạy cảm, dễ dẫn đến rủi ro vốn tín dụng. Đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay, làm tốt công tác quản lý cán bộ, có cơ chế khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh để tránh tình trạng lợi dụng xác định giá trị tài sản thế chấp, bảo lãnh vượt quá giá trị thực tế dẫn đến tham ô, lợi dụng và những biểu hiện tiêu cực khác, gây rủi ro cho Ngân hàng, cho khách hàng và cho nền kinh tế.
- Phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên sâu về kỹ năng, nghiệp vụ và có đạo đức tốt.
Đội ngũ cán bộ tín dụng phải thường xuyên được tập huấn, trao đổi nghiệp vụ nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. Phải được chú trọng đào tạo chuyên sâu về phương pháp kỹ năng thẩm định phương án, dự án vay vốn, qui trình cho vay… thực hiện phân cấp quản lý tín dụng theo trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác của mỗi cán bộ tín dụng.
Quản lý tốt cán bộ, theo dõi hành vi giao tiếp của cán bộ tín dụng đối với khách hàng, việc chi tiêu cá nhân vượt xa mức thu nhập cũng càng được xem xét nghiêm túc để ngăn ngừa tình trạng tiêu cực của cán bộ trong cho vay. Xử lý nghiêm các cán bộ tín dụng tiêu cực, nhũng nhiễu và có kế hoạch luân chuyển cán bộ tín dụng tránh tình trạng lạm dụng tín nhiệm để tư lợi.
Chúng ta đứng trước vận hội mới, thử thách mới, đòi hỏi phải có chiến lược, bước đi thích hợp. Với phương châm chỉ đạo công tác tín dụng “An toàn để phát triển, phát triển phải an toàn” NHNo&PTNT Việt Nam có kế hoạch hỗ trợ đào tạo các kiến thức mới trong quản lý kinh tế, kiến thức ngoại ngành, tiếp thị, pháp lý…
NHNo&PTNT Việt Nam có chế độ khuyến khích cho cán bộ tín dụng về lương, thưởng và nâng mức công tác phí cho CBTD.
Trên đây là những yêu cầu cấp thiết trong xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam cần phải được quan tâm thích đáng trong thời gian tới để trên nền tảng đó mà mở rộng, nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.5. Nâng cao chất lượng điều hành hoạt động tín dụng ở cơ sở
Nâng cao chất lượng công tác điều hành hoạt động tín dụng trước hết cần xuất phát từ việc nâng cao trình độ năng lực của từng cán bộ quản trị tín dụng các cấp, cần chú trọng đào tạo bồi dưỡng kiến thức thị trường, pháp luật, nghiệp vụ để điều hành hoạt động tín dụng hiệu quả, xác thực tế, đúng quy chế, đúng thẩm quyền, đúng pháp luật.
NHNo&PTNT Việt Nam cần xác định tăng trưởng đi kèm với chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu, là thước đo đánh giá năng lực điều hành của các cấp lãnh
đạo Ngân hàng; bên cạnh việc tập trung chấn chỉnh việc chấp hành quy trình tín dụng đến từng cán bộ, từng định kỳ tiến hành đánh giá kết quả hoạt động, phân loại địa bàn và xây dựng kế hoạch kinh doanh (dự án đầu tư tín dụng) cho từng chi nhánh, từng địa bàn, từng cán bộ tín dụng. Qua đó xây dựng hệ thống giải pháp phù hợp với thực trạng dư nợ, tình hình cụ thể của từng địa bàn để thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng. Chẳng hạn:
- Thực hiện phân loại nợ nghiêm túc để phản ánh đúng thực trạng dư nợ, trích dự phòng đúng quy định, tránh tình trạng chạy theo thành tích, chạy theo quỹ lương…
- Chỉ đạo cán bộ tín dụng thường xuyên, phân loại khách hàng và nắm vững diễn biến tình trạng thị trường để có biện pháp đầu tư phù hợp, tập trung hai nhóm chính: một là khách hàng tiềm năng để thực hiện các biện pháp tiếp cận, xây dựng mối quan hệ nhằm huy động vốn, tăng trưởng tín dụng; hai là quản lý tốt dư nợ có vấn đề, khách hàng có nguy cơ, qua đó giải quyết nhiệm vụ tăng trưởng, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Từng bước áp dụng phân loại khách hàng trên cơ sở chấm điểm để có mức đầu tư hợp lý.
- Phối hợp chặt chẽ với cấp hội, tổ chức đánh giá, tổng kết việc thực hiện cho vay qua tổ
- Tranh thủ sự chỉ đạo, ủng hộ chính quyền địa phương bằng việc thường xuyên báo cáo với cấp ủy để tranh thủ ý kiến chỉ đạo, nắm bắt các thông tin để có kế hoạch đầu tư đúng hướng, đồng thời tranh thủ sự hổ trợ để thực hiện các biện pháp thu hồi nợ đối với các khoản nợ xấu.
- Phân công lãnh đạo bám sát cơ sở để chỉ đạo hoạt động kinh doanh, tháo gỡ khó khăn ngay tại nơi phát sinh và ngay tại lúc phát sinh cần được tiến hành chặt chẽ cho tất cả các chi nhánh và các loại cán bộ; rõ ràng trong phân công, phân nhiệm và chịu trách nhiệm trước giám đốc về hoạt động tín dụng và quan hệ hợp tác với các cấp ngành liên quan.
- Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, cần thực hiện chi trả lương công nhân theo kết quả công việc. Và nâng cao hiệu quả việc khoán các chỉ tiêu gắn lợi ích vật chất để thúc đẩy đội ngũ cán bộ tín dụng hoàn thành tốt công việc.
- Đào tạo và trang bị kiến thức cho đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ quản trị rủi ro tín dụng để đủ khả năng đảm đương công việc.
- Nâng cao chất lượng giám sát khoản vay, đánh giá định kỳ khách hàng, tránh tình trạng khoản vay và tài sản thế chấp bị buông lỏng; kể cả đối với khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài.
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư theo nhóm khách hàng, nhóm đối tượng vay vốn; có xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, đồng thời thực hiện tốt hạn mức tín dụng theo ngành, theo địa bàn theo nhóm khách hàng, tránh “bỏ tất cả trứng vào một giỏ”.
- Làm tốt việc thu thập, phân tích thông tin thị trường, dự báo thị trường. Cho vay kinh tế hộ phải chú ý đúng mức đến phương diện thị trường và những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hội nhập.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng rơi vào “tình trạng không trả được nợ”. Tuy nhiên tại NHNo&PTNT Việt Nam chưa có định nghĩa về “tình trạng không trả được nợ”. Khách hàng vay được đánh giá là tốt hay xấu dựa trên điểm và hạng trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Theo Basel II “tình trạng không trả được nợ” được định nghĩa như sau: Khách hàng đã quá hạn trả nợ trên 90 ngày; đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ; tỷ lệ thu hồi vốn <75%; các khoản nợ đã được xử lý rủi ro; đang chờ hay trong tình trạng phá sản, giải thể.
Tại NHNo&PTNT Việt Nam, hiện nay cơ chế tín dụng vẫn đang được tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, từng bước hình thành hệ thống cơ chế tín dụng đồng bộ, rõ ràng, phù hợp với các quy định mới, thể hiện rõ nét chính sách tín dụng không phân biệt các loại hình kinh tế, hướng tới phục vụ tốt nhất nhu cầu tín dụng của khách hàng, nâng cao điều kiện tín dụng để lựa chọn khách hàng tốt, tăng cường quản lý rủi ro tín dụng.
Thực hiện nghiêm túc quy trình kiểm tra giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng, đặc biệt chú ý việc kiểm tra sau khi cho vay. Kết quả kiểm tra phải đưa ra được đầy đủ các căn cứ và khẳng định được khách hàng đã sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả. Trường hợp khách hàng có những biểu hiện
bất thường ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, cần có ngay các giải pháp cần thiết hay có biện pháp thu hồi vốn vay để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.
Để nâng cao chất lượng tín dụng và đáp ứng yêu cầu hội nhập, NHNo&PTNT Việt Nam thường xuyên có văn bản chỉ đạo đồng thời bổ sung, sửa đổi các cơ chế tín dụng theo hướng nâng cao điều kiện tín dụng nhằm đẩy mạnh sàng lọc, lựa chọn khách hàng. Các chi nhánh cần xác định rõ mục tiêu mở rộng quy mô gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Tập trung thu hồi nợ của các khách hàng năng lực tài chính và hoạt động kinh doanh yếu kém. Tích cực tìm kiếm khách hàng tốt, dự án có hiệu quả để mở rộng cho vay.
Khi phát sinh nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro các chi nhánh đều phải thành lập tổ xử lý nợ xấu; thường xuyên phân tích nguyên nhân gây ra nợ xấu, bám sát khách hàng để thu hồi nợ, gắn trách nhiệm, chế độ tiền lương, tiền thưởng đối với mỗi cá nhân để xảy ra nợ xấu; có chế độ khuyến khích những tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thu hồi nợ xấu.
Khuyến khích các chi nhánh tìm mọi biện pháp xử lý nợ xấu như bán nợ cho công ty DATC, VAMC, xử lý rủi ro, khởi kiện ra toà, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
3.2.6. Đa dạng hóa phương thức và đối tượng cho vay
NHNo&PTNT Việt Nam nên căn cứ vào từng đối tượng sản xuất mà chọn phương thức cho vay phù hợp, ngoài phương thức cho vay từng lần thì NHNo&PTNT Việt Nam cần áp dụng đa dạng hóa các phương thức cho vay như: cho vay theo dự án đầu tư, cho vay trả góp,… nhất là cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay lưu vụ.
Trong hoạt động cho vay kinh tế hộ sản xuất hiện nay, các chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam thường đầu tư theo một vài đối tượng nhất định với nguồn vốn nhất định, dẫn đến việc sử dụng vốn của các hộ sản xuất là rất khó khăn, kéo theo việc thường chuyển mục đích sử dụng vốn vào đối tượng khác dễ dẫn đến rủi ro.
Để thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển hiệu quả, NHNo&PTNT Việt Nam cần phải đa dạng hóa đối tượng và nguồn vốn đầu tư. Đi đôi với việc đầu tư cho