Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 12


khoảng 08 triệu lượt HSX được vay vốn mỗi năm; dư nợ cho vay HSX đến hết năm 2014, dư nợ cho vay hộ sản xuất và cá nhân đạt 338.632 tỷ đồng, tăng 39.972 tỷ đồng so với cuối năm 2013; đến 31/12/2013 dư nợ đạt 298.650 tỷ đồng, số hộ hiện nay đang có quan hệ tín dụng với Ngân hàng gần 5,5 triệu hộ (chưa kể trên 02 triệu hộ nông dân nghèo vay vốn Ngân hàng chính sách xã hội) chiếm gần 56% số hộ nông dân của toàn quốc. Cho vay vốn tới HSX nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh đặc biệt từ sau Nghị định số 41/NĐ-CP. Diện cho vay đựơc mở rộng khắp các vùng kinh tế của đất nước, trở thành hoạt động tín dụng chủ yếu của các Chi nhánh khu vực nông thôn. [23]

Hai là, đa dạng phương thức cho vay vốn đối với HSX; đồng thời khai thác hiệu quả phương thức phối hợp với Hội nông dân và Hội phụ nữ các cấp, NHNo&PTNT Việt Nam góp phần đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp

- NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện kết hợp đa dạng đồng thời các loại hình tín dụng linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng HSX và vùng kinh tế, đó là: cho vay trực tiếp; cho vay thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,… NHNo&PTNT Việt Nam đã ký Nghị quyết liên tịch số 2308/NQLT-1999 ngày 09/10/1999 với Trung ương Hội Nông dân Việt Nam về tổ chức thực hiện chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp – nông thôn, Thông tư số 02 với Hội Phụ nữ về việc cho vay qua tổ nhóm hội viên của các tổ chức này. Trong số đó thì việc phối hợp với Hội Nông dân là lớn nhất. Thông qua đó để giải ngân vốn vay kịp thời, giảm phiền hà, bảo đảm các nguyên tắc tín dụng và có hiệu quả cho các gia đình nông dân. Bởi vì đây là tổ chức hội đông đảo và rộng lớn, đổi mới hoạt động sát với lợi ích của các hộ nông dân. Do đó vốn tín dụng được chuyển tải đúng đối tượng, bám sát nhu cầu, bảo đảm nhanh chóng, an toàn và hiệu quả vốn vay cho cả NHNo&PTNT Việt Nam, cũng như hộ nông dân.

- Tính đến hết năm 2014, NHNo&PTNT Việt Nam cùng hai tổ chức nói trên đã thành lập được hơn 150.000 tổ vay vốn với tổng số thành viên là 3.514.613


người. Thông qua đó đã tạo lập được môi trường cho các HSX có thu nhập thấp, không có đủ tài sản đảm bảo tiền vay, tiếp cận được với vốn vay NHNo&PTNT Việt Nam, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Đồng thời thông qua đó, NHNo&PTNT Việt Nam có thêm một kênh dẫn vốn đến với hộ nông dân, đến với sản xuất nông nghiệp. [27, 28, 29, 58]

- Thông qua các tổ chức chính trị, xã hội ở cở sở, hội nghề nghiệp đã thành lập hàng chục nghìn tổ vay vốn, đến hết năm 2013 đã có trên 136.000 tổ vay vốn, do các hội viên Hội nông dân thành lập. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam đã thực sự gắn với làng, bản, xóm, thôn gần gũi với bà con nông dân. Vốn cho vay đã tạo thêm nghề mới, khôi phục các làng nghề truyền thống; góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá, công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt NHNo&PTNT Việt Nam đã đáp ứng với khối lượng vốn lớn cho các hộ gia đình làm kinh tế trang trại với số tiền trên 15.000 tỷ đồng; cho vay cơ sở hạ tầng nông thôn (điện, thuỷ lợi, nhà ở) với dư nợ khoảng 16.000 tỷ đồng. [23]

Ba là, NHNo&PTNT Việt Nam gắn bó chặt chẽ với đối tượng khách hàng đông đảo và truyền thống là HSX; đồng thời chính HSX lại đảm bảo chất lượng tín dụng cao nhất cho Ngân hàng này

- Trong 06 năm gần đây: 2009 - 2014, dư nợ cho vay HSX của NHNo&PTNT Việt Nam có tốc độ tăng tương đối phù hợp và tương ứng với tốc độ tăng tổng dư nợ chung của NHNo&PTNT Việt Nam. Tỷ trọng dư nợ HSX thường chiếm trên 50% tổng dư nợ. Số hộ dư nợ tăng và dư nợ bình quân 01 hộ cũng tăng khá. Nhất là trong 4 - 5 năm gần đây, kinh tế trang trại, các hộ nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông lâm sản, chăn nuôi lợn công nghiệp, làm nghề thủ công,… phát triển tương đối mạnh, kinh doanh có hiệu quả, nên nhu cầu vốn cũng tăng lên. Bên cạnh đó nhiều hộ có con em đi xuất khẩu lao động, làm dịch vụ vận tải, kinh doanh nhà hàng, sản xuất vật liệu xây dựng,… cũng cần số vốn vay lớn. Bởi vậy, đây là những nhân tố quan trọng làm cho dư nợ bình quân 01 HSX có xu hướng tăng cao.

- Về chất lượng cho vay vốn tới HSX, cho đến nay số liệu chính thức cho thấy tỷ lệ nợ xấu cho vay HSX thấp hơn so với các thành phần kinh tế khác của cả


nước. Thực tế tổng quan chung của NHNo&PTNT Việt Nam, nhất là tại nhiều chi nhánh NHNo&PTNT các tỉnh vùng Đồng bằng Bắc bộ, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ, khu vực Tây Nguyên thì nợ quá hạn cho vay HSX thấp nhất so với các đối tượng khách hàng khác, giúp phân tán được rủi ro. HSX có nguồn thu tổng hợp và một số yếu tố về xã hội, lịch sử truyền thống khác tạo nên chất lượng cho vay HSX an tâm hơn.

Tỷ lệ nợ xấu cho vay vốn hộ sản xuất giảm từ 1,58% của năm 2010 xuống còn 1,51% năm 2013 và 1,43% của năm 2014, thấp rất xa so với tỷ lệ nợ xấu chung của NHNo&PTNT Việt Nam từ 3% đến trên 5% của giai đoạn này, cụ thể là 3,8% vào năm 2010, 4,68% vào năm 2013 và 4,55% vào năm 2014.

Bảng số 2.20: So sánh tỷ lệ nơ xấu cho vay hộ sản xuất và tỷ lệ nợ xấu chung của NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2009 – 2014


Chỉ tiêu

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Nợ xấu chung

2.60%

3.80%

6.10%

5.80%

4.68%

4.55%

Nợ xấu cho vay hộ sản

xuất

1,49%

1,58%

1,61%

1,54%

1,51%

1,43%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.


(Nguồn: NHNo&PTNT Việt Nam (2009-2014) [23]

Bốn là, NHNo&PTNT Việt Nam chủ động chỉ đạo, điều hành mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với HSX

- NHNo&PTNT Việt Nam chủ động nắm bắt kịp thời diễn biến của nền kinh tế, những điều chỉnh cơ chế, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan đến hoạt động cấp tín dụng; dự báo rủi ro tín dụng nói chung, tín dụng HSX nói riêng để có các giải pháp chỉ đạo điều hành hoạt động tín dụng phù hợp, linh hoạt, an toàn, hiệu quả; rà soát sửa đổi, bổ sung, ban hành các cơ chế, quy trình nghiệp vụ phù hợp nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với HSX, bảo đảm an toàn hoạt động hệ thống.


- Tuân thủ chỉ đạo về chính sách tiền tệ, tín dụng, lãi suất cho vay theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, chia sẻ khó khăn với khách hàng; giữ vững vai trò chủ đạo trong đầu tư tín dụng nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với HSX, góp phần tích cực vào ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng.

- Thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn đối với khách hàng liên quan đến điều kiện và thủ tục tín dụng theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước tại văn bản số 7558/NHNN-TD ngày 14/10/2013.

- Chỉ đạo các Chi nhánh tập trung vốn mở rộng đầu tư tín dụng cho nông nghiệp – nông thôn; mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất; dư nợ cho vay nông nghiệp – nông thôn tăng trưởng tốt, chất lượng tín dụng tuơng đối tốt, gắn hoạt động cấp tín dụng với phát triển các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng;

- Đáp ứng kịp thời, đủ vốn trên địa bàn đối với các dự án có hiệu quả, đầu tư tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với HSX.

- Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng HSX nói riêng, tăng cường công tác kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay; thực hiện cơ cấu nợ nghiêm túc, đúng quy định. Công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay được quan tâm chú trọng hơn.

- Chỉ đạo tập trung thực hiện các giải pháp nhằm giảm thấp nợ xấu, tăng cường nguồn lực cho các ban chỉ đạo xử lý thu hồi nợ, kiên quyết xử lý các trường hợp thiếu trách nhiệm, chây ì, trốn tránh nợ.

- Triển khai có hiệu quả Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp – nông thôn, tăng cường cho vay qua tổ nhóm, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, góp phần giảm tải khối lượng công việc cho cán bộ tín dụng.

- Thực hiện chương trình kiểm tra, khảo sát chuyên đề Tín dụng HSX và cá nhân hàng năm, các năm: 2009 - 2014, cho vay theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ, cho vay nông thôn mới, chú trọng việc khảo sát về các vướng mắc


khi triển khai thực hiện những cơ chế chính sách (nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp

– nông thôn và HSX) để đề xuất xử lý giải quyết kịp thời, đồng thời nghiên cứu xây dựng các sản phẩm mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn tại cơ sở.

Năm là, Vốn tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm tại chỗ và nâng cao thu nhập cho người nông dân.

HSX là đối tượng khách hàng vay vốn đông đảo nhất và chiếm tỉ trọng dư nợ lớn hàng năm trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và các chi nhánh NHNo&PTNT huyện ở các tỉnh đồng bằng, trung du miền núi nói riêng, đặc biệt là các huyện có tỷ trọng sản xuất nông nghiệp cao nhất trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Do đó mở rộng tín dụng HSX an toàn, hiệu quả luôn được NHNo&PTNT các huyện đó chú trọng, thể hiện:

Thứ nhất, NHNo&PTNT các huyện thuần nông luôn chú trọng công tác thẩm định, chấm điểm, xếp loại trước khi cho vay HSX, đảm bảo dự án sử dụng vốn có hiệu quả.

Thứ hai, thông qua cho vay trực tiếp tới HSX chi nhánh NHNo&PTNT các huyện thuần nông đã đáp ứng yêu cầu vốn cho phát triển sản xuất - kinh doanh, phát huy tối đa nội lực của các HSX, khai thác hết tiềm năng, nguồn lực của từng hộ gia đình về lao động, đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả nhất để phát triển kinh tế.

Thứ ba, cho vay kinh tế hộ thúc đẩy HSX hàng hóa, hộ kinh tế trang trại phát triển nhanh, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của địa phương. Với nguồn vốn vay của NHNo&PTNT đã xuất hiện nhiều hộ điển hình sản xuất - kinh doanh giỏi và nhiều mô hình làm ăn có hiệu quả kinh tế cao.

Thứ tư, cho vay đối với HSX đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các chương trình, chính sách kinh tế - xã hội khác của Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân, tạo điều kiện nâng cao dân trí, hình thành những thói quen tốt trong hoạt động kinh tế phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa

- hiện đại hóa đất nước; đồng thời đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn.


Phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, lãi suất cho vay hộ sản xuất của NHNo&PTNT Việt Nam cũng giảm dần. Số liệu diễn biến lãi suất cho vay hộ sản xuất gần đây nhất của NHNo&PTNT Việt Nam chứng minh thực tế đó.

Biểu đồ số 2.9: Diễn biến lãi suất cho vay vốn nội tệ đối với hộ sản xuất gần đây nhất của NHNo&PTNT Việt Nam

Đơn vị tính: %/năm


Nguồn NHNo PTNT Việt Nam 2009 2014 23 Thứ năm thông qua việc cho vay HSX thông 1

(Nguồn: NHNo&PTNT Việt Nam (2009-2014) [23]

Thứ năm, thông qua việc cho vay HSX thông qua tổ vay vốn đã giúp NHNo&PTNT địa phương thực hiện được nhiệm vụ chính trị, xã hội hóa hoạt động tín dụng qua đó mở rộng được tín dụng kinh tế hộ an toàn, hiệu quả, chi phí thấp giúp bà con tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng thuận lợi hơn, phục vụ kịp thời chộ sản xuất kinh doanh, đẩy lùi tệ cho vay nặng lãi, đồng thời còn hướng dẫn kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất hiệu quả.

Sáu là, thông qua nâng cao chất lượng tín dụng đối với HSX, NHNo&PTNT Việt Nam khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn ủy thác nước ngoài, các khoản tái cấp vốn của nông nghiệp – nông thôn.


Hàng năm, bên cạnh nguồn vốn tự huy động để cho vay tới HSX, NHNo&PTNT Việt Nam còn nhận được nguồn vốn của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, vốn hộ trợ của NHNN qua cho vay tái cấp vốn, qua giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Song với kết quả cho vay và đảm bảo chất lượng cho vay vốn HSX, NHNo&PTNT Việt Nam đã tạo được uy tín đối với các tổ chức tài chính quốc tế lớn WB, ADB…, uy tín, hiệu quả chính sách tín dụng nông nghiệp – nông thôn của Đảng và Chính phủ được đảm bảo.

Bảng số 2.21: Diễn biến vay vốn NHNN của NHNo&PTNT Việt Nam các năm 2009-2014

Đơn vị: tỷ đồng



STT


Chỉ tiêu

Năm



2009

2010

2011

2012

2013

2014

1

Doanh số vay tái

cấp vốn

7.000

8.000

77.000

40.000

30.000

20.000


2

Số dư vay tái cấp vốn đến

31/12


8.000


8.000


17.000


15.000


14.000


13.000

3

Doanh số hoạt

động OMO

75.229

64.152

53.740

113.512


122.964


96.731


4

Số dư vay OMO đến 31/12


10.707


3.186


18.393


20.118


15.094


8.116

(Nguồn: [NHNo&PTNT Việt Nam (2009-2014) [28]

2.3.2. Một số hạn chế

Một là, mặc dù tỷ lệ nợ xấu vốn cho vay hộ sản xuất thấp hơn khách hàng doanh nghiệp nhưng tỷ lệ nợ xấu vốn cho vay HSX trên sổ sách chưa phản ánh sát thực tế, nợ tiềm ẩn ở một số chi nhánh còn lớn.

Nhìn chung trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, kết quả thu nợ đã xử lý rủi ro đạt thấp. Một số chi nhánh chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động cho vay


thông qua tổ vay vốn, do đó việc chuyển tải vốn thông qua các tổ chức đoàn thể, các cấp hội đến HSX còn thấp, dư nợ cho vay thông qua tổ vay vốn tăng trưởng chậm.

Cơ cấu nợ xấu theo nhóm ngành cho thấy chủ yếu nợ xấu trong cho vay kinh tế hộ của NHNo&PTNT vẫn ở các đối tượng trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của hộ nông dân. Việc thu hồi nợ xấu, nợ xử lý rủi ro rất khó khăn do khách hàng vay thua lỗ nhiều năm không còn khả năng trả nợ, các khoản vay chủ yếu là không bảo đảm, việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ thường không được Chính quyền địa phương đồng thuận nên kết quả thu hồi rất thấp.

Qua kiểm tra của các Đoàn kiểm tra chéo do hội sở chi nhánh tỉnh, thành phố và do hội sở chính ở Trung ương thành lập phát hiện còn nhiều thiếu sót tồn tại trong công tác tín dụng hộ sản xuất ở cơ sở: một số hồ sơ vay vốn chưa đảm bảo các yếu tố pháp lý; Giải ngân thiếu chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn, kiểm tra sau giải ngân của cán bộ tín dụng hộ sản xuất còn mang tính hình thức, nhiều món vay tự hộ sản xuất cơ cấu lại theo hướng vay nóng từ các nguồn khác nhau trả nợ đúng hạn sau đó ít ngày lại và tiếp.

Hai là, vốn tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam vẫn chưa phủ kín, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay của HSX. Do đó tình trạng cho vay nặng lãi vẫn còn xuất hiện phổ biến ở nhiều vùng nông thôn.

Tại một số địa phương vùng sâu, vùng xa của đồng bằng sông Cửu Long; hộ ngư dân ở khu vực miền Trung và một số vùng khác, do không vay được vốn Ngân hàng nên nhiều HSX vẫn phải vay vốn tín dụng đen với lãi suất cao. Thực tế này do các nguyên nhân sau:

- Về thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay đối với kinh tế HSX hiện nay ở NHNo&PTNT trên địa bàn chủ yếu là cho vay ngắn hạn, tỷ lệ cho vay trung, dài hạn còn chưa cao điều đó đã cho thấy việc đầu tư vào những đối tượng trồng cây lâu năm và vật nuôi sinh sản còn nhiều hạn chế.

- Đối tượng vay vốn: Đối tượng cho vay chưa đa dạng, việc tìm kiếm, nắm bắt các dự án đầu tư khả thi còn hạn chế.


- Về Phương thức cho vay: Hiện nay NHNo&PTNT các địa phương chủ yếu vẫn áp dụng phương thức cho vay từng lần đối với kinh tế hộ nông nghiệp, các HSX này mỗi lần vay vốn phải làm lại hồ sơ và nhiều thủ tục khác, gây mất thời gian và vốn không được sử dụng một cách tiết kiệm nhất.

- Thủ tục vay vốn còn quá nhiều phức tạp: Đối với các món vay không có bảo đảm bằng tài sản thì thủ tục là khá đơn giản, hộ có thể sử dụng sổ vay vốn để vay nhiều lần. Tuy nhiên các món vay thế chấp thì thủ tục còn tương đối phức tạp, hộ phải có chứng thực gặp nhiều phiền phức; thủ tục cho vay hộ nông dân của Ngân hàng chưa phù hợp do quy định phức tạp, nên khi mùa vụ đến thì vốn đầu tư cho hộ nông dân không kịp thời làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất trong khi nguồn vốn của Ngân hàng thì bị ứ đọng trong quá trình giải ngân.

- Bảo đảm tiền vay: Tuy Chính phủ và NHNN đã có nhiều chính sách thông thoáng, nới lỏng đối với việc bảo đảm tiền vay, song các quy định về bảo đảm tiền vay đối với kinh tế hộ nông nghiệp như đã nêu trên khi áp dụng vào thực tế còn nhiều vấn đề bất cập. Điều này cũng là nguyên nhân làm cho các HSX khó tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng.

- Về cân đối vốn: khả năng huy động vốn tại chỗ còn khó khăn dẫn đến hạn chế nguồn vốn trong cho vay. Thực tế thời gian qua nguồn vốn huy động tại địa phương của NHNo&PTNT các huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nam bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Miền Trung,…. chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, cân đối luôn thiếu vốn, phải xin kế hoạch điều hòa vốn của Trung ương (Hội sở chính NHNo&PTNT Việt Nam).

Ba là, lãi suất cho vay hộ sản xuất chưa phù hợp, còn cao so với các đối tượng khác

- Quy định trần lãi suất huy động và giới hạn lãi suất cho vay 5 đối tượng ưu tiên, trong đó có HSX nông nghiệp nông thôn,… hiện nay của Thống đốc NHNN nhằm điều tiết hợp lý cung, cầu vốn giữa các khu vực, địa bàn nông thôn, với đô thị, kích thích dòng chảy vốn từ khu vực đô thị chảy về nông thôn, nhằm đáp ứng đủ vốn cho hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và các thành phần kinh tế khác


hoạt động ở nông thôn. Tuy nhiên trong thực tế nhiều nơi lãi suất cho vay ở khu vực nông thôn, hộ nông dân của NHNo&PTNT Việt Nam còn cao hơn nhiều so với đô thị và các doanh nghiệp.

Bốn là, kết quả cho vay qua tổ nhóm chưa bền vững và hoạt động cho thuê tài chính chưa phát triển

Lợi dụng sự tín nhiệm và sự sơ hở trong khâu quản lý tổ có một số nội dung chưa phù hợp, khâu xét chọn Ban quản lý tổ chưa tốt nên cá biệt một số tổ vay vốn đã xảy ra vụ việc tiêu cực như: lập hồ sơ vay khống nhằm chiếm dụng tiền của Ngân hàng và tiền gửi trả nợ của tổ viên; vay ké tổ viên, phát lại tiền vay cho tổ viên không đúng số tiền được Ngân hàng duyệt...

- Đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính, hiện nay nghiệp vụ này mới chủ yếu tập trung ở đô thị và các khách hàng là doanh nghiệp, trong đó khu vực nông thôn rộng lớn, HSX đang cần rất nhiều chủng loại máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, nhưng NHNo&PTNT Việt Nam chưa quan tâm đầu tư.

Năm là, chi phi cho vay vốn hộ sản xuất còn cao

Mặc dù được một số tổ chức tài chính quốc tế đánh giá NHNo&PTNT Việt Nam là NHTM có chi phí cho vay vốn HSX thấp nhất so với các NHTM khác ở Việt Nam cũng như trong khu vực, nhưng so với các đối tượng khách hàng khác của NHNo&PTNT Việt Nam thì chi phí vẫn còn cao. Số lượng cán bộ đông, món vay nhỏ, số lượng khế ước vay vốn nhiều, địa bàn xa và phân tán, đi lại khó khăn, thủ tục giấy tờ nhiều, làm đi làm lại trùng lặp, làm cho chi phí cho vay vốn HSX vẫn còn cao.

Sáu là, hoạt động tín dụng hộ sản xuất chưa thực sự nâng cao khả năng cạnh tranh của HSX về năng lực sản xuất hàng hóa, cung cấp ra thị trường những mặt hàng nông sản có chất lượng trong xu thế mở cửa hội nhập quốc tế.

Quy mô cho vay vốn kinh tế HSX còn thấp, vốn cho vay chưa thúc đẩy HSX ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, chưa nâng cao được năng suất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi và đảm bảo chất lượng nông sản trong xu thế mở cửa hiện nay. Bởi vì Việt Nam đang tiếp tục thực hiện cam kết mở cửa khi gia nhập WTO và


chuẩn bị tham gia TPP. Trong đó lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi lợn, gà, bò,… theo quy mô gia đình bị ảnh hưởng nhiều nhất, đặt biệt là khi tham gia TPP.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức chưa cao và chỉ đạo điều hành thiếu chặt chẽ trong thực hiện mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất

NHNo&PTNT Việt Nam đến nay là NHTM Nhà nước duy nhất, là NHTM chủ lực trong cho vay nông nghiệp – nông thôn và hộ nông dân. NHNo&PTNT Việt Nam vẫn đang được hưởng nhiều ưu đãi trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp, lãi suất cho vay tái cấp vốn thấp, hạn mức cho vay tái cấp vốn được nới rộng so với các NHTM khác,.. tạo điều kiện cho Ngân hàng này mở rộng cho vay lĩnh vực nói trên cũng như triển khai cho vay các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ. Tuy nhiên nhận thức của Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam còn hạn chế, chỉ đạo điều hành thiếu chặt chẽ, nên chưa chủ động và tạo điều kiện cân đối vốn, điều hòa nguồn vốn cho các chi nhánh có thế mạnh về mở rộng cho vay hộ sản xuất.

- Quản trị rủi ro tín dụng vẫn mang nặng tính truyền thống và chưa gắn gắn với hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng

Quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam về cơ bản tuân thủ các quy định của NHNN và đang dần tiếp cận với thông lệ quốc tế, tuy nhiên hầu như mới áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp, còn khách hàng là HSX thì việc áp dụng tại các chi nhánh vẫn mang tính hình thức, còn nặng về quản trị rủi ro truyền thống, dựa trên kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, dựa trên truyền thống của người vay. Bên cạnh đó thực tiễn nhiều khoản tín dụng HSX phát sinh nợ xấu cho thấy có nguyên nhân hàng đầu đó là các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam chưa thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng. Mặt khác, quy trình tín dụng hiện hành của NHNo&PTNT Việt Nam vẫn còn có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn, còn có những điểm sơ hở mà khách hàng và cán bộ tín dụng có thể lợi dụng.


- Số lượng, chất lượng cán bộ tín dụng chưa đáp ứng nhu cầu; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ còn nhiều bất cập

Trình độ cán bộ chậm được nâng cao, nhất là những kiến thức và trình độ về công tác thẩm định cho vay, do yếu kém về trình độ nên việc đánh giá phân tích tính khả thi của dự án, phương án vay vốn của HSX nông nghiệp rất hạn chế, dẫn đến tình trạng cho vay không bám sát vào nhu cầu thực tế của dự án, để yên tâm cán bộ tín dụng thường căn cứ vào giá trị tài sản làm bảo đảm để tính toán mức cho vay. Kiểm tra quản lý vốn vay có nơi còn thiếu chặt chẽ nên chưa phát hiện kịp thời những tồn tại để xử lý, còn bộ phận cán bộ thiếu trách nhiệm trong công tác xử lý, thu hồi nợ nên chất lượng tín dụng thấp, nợ xấu cao và nợ tiềm ẩn rủi ro lớn.

Hiện nay, nhìn chung các NHNo&PTNT cơ sở có quan hê tín dụng với số đông khách hàng là HSX thì tỷ lệ cán bộ tín dụng chiếm dưới 40% tổng số cán bộ nhân viên của mỗi chi nhánh. Bình quân mỗi CBTD phụ trách 2 xã, với trên 1.000 hồ sơ khách hàng vay vốn. Tuy đã cố gắng, nhưng vẫn còn tồn tại nguy cơ chất lượng tín dụng giảm sút do cán bộ tín dụng quá tải, buông lỏng quy trình. Chất lượng CBTD cũng còn nhiều tồn tại, nhất là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng marketing và việc nắm bắt quy trình, nghiệp vụ mới. Việc bố trí đào tạo nâng cao trình độ của CBTD để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ còn nhiều hạn chế.

Những rủi ro về đạo đức của CBTD cho vay HSX vẫn bộc lộ rõ, nhiều tiêu cực vẫn xảy ra và thường xuyên được phát hiện ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của các chi nhánh cũng như hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.

Trình độ cán bộ còn bất cập, năng lực kinh doanh vẫn còn hạn chế, việc nắm bắt quy trình mới, nhận thức mới của một số cán bộ và nhân viên còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác đào tạo đối với đội ngũ cán bộ nhân viên chưa theo kịp yêu cầu hoạt động ngày càng tăng với chất lượng ngày càng cao, đặc biệt là đào tạo theo yêu cầu hội nhập.

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí