Phát Triển Khoa Học - Công Nghệ, Đào Tạo Và Sử Dụng Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Gắn Với Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Theo Hướng Bền Vững,


Sử dụng đầu tư công như một công cụ hữu hiệu đảm bảo sự phát triển hợp lí giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng và nhóm xã hội. Đầu tư mạnh cho lĩnh vực phát triển nông nghiệp và cải thiện đời sống nông thôn, với những trọng tâm nhằm vào: nghiên cứu, triển khai giống, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến nông, lâm, thủy sản và chuyển giao cho nông dân; hỗ trợ nông dân tiếp cận với thị trường, tham gia vào các chuỗi giá trị gia tăng; hỗ trợ thúc đẩy công nghệ chế biến nông, lâm, thủy sản; giúp người nghèo biết cách làm ăn để tự vươn lên thoát nghèo, hỗ trợ đến tận đối tượng nghèo nhất và có tác động trực tiếp đến việc cải thiện sinh kế và điều kiện sống cho họ.

Đổi mới cơ chế quản lí đầu tư công để nâng cao hiệu quả tổng hợp và đảm bảo tính bền vững trong phát triển. Đổi mới phương thức phân bổ đầu tư công theo hướng xây dựng một kế hoạch tài chính và chi tiêu trung hạn, trong đó chi đầu tư và chi thường xuyên được gắn kết chặt chẽ với nhau thành nhu cầu tổng thể và cân đối với nguồn huy động vốn.

Xây dựng và ban hành hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả. Hệ thống tiêu chí này cần đủ mức cụ thể, có thể đo lường khách quan để có thể đánh giá được hiệu quả và dự báo được tác động của dự án về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Hệ thống tiêu chí đó sẽ được sử dụng trong đề xuất, thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá các dự án đầu tư công. Đồng thời, đó cũng sẽ là một thước đo quan trọng trong bộ tiêu chí ưu tiên hóa các dự án đầu tư công.

Áp dụng các phương pháp tiên tiến trên thế giới trong luận chứng, thẩm định, đánh giá, lựa chọn và quyết định dự án đầu tư. Hoàn thiện cơ chế đấu thầu nhằm thực hiện các nhiệm vụ đầu tư theo thông lệ quốc tế, trong đó tính đến việc ưu tiên đảm bảo lợi ích quốc gia trong các loại dự án có đặc điểm khác nhau.

4.3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

a. Cơ cấu ngành kinh tế

Trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế của Hà Nội đã chuyển dịch theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Đó là chuyển dịch nhanh cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Khuyến khích, phát triển các loại hình dịch vụ có trình độ và chất lượng cao. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao; nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của


các sản phẩm công nghiệp mũi nhọn. Phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, sinh thái, sạch, công nghệ cao…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, kết quả triển khai thực hiện chưa được như mong muốn. Mặc dù, ngành Dịch vụ chiếm tỉ trọng cao hơn so với công nghiệp, song tính chất và trình độ phát triển của dịch vụ hiện nay vẫn chưa bảo đảm yêu cầu đối với một ngành được ưu tiên. Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhưng vẫn còn nhiều bất cập, việc đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung đầu tư đúng mức cho các ngành, sản phẩm mũi nhọn. Ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thiếu ổn định. Để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới cần phải xác định ngành kinh tế động lực của Hà Nội. Trước mắt, cần ưu tiên phát triển một số ngành có trình độ phát triển hiện đại với chất lượng cao thuộc các nhóm ngành dịch vụ và công nghiệp, về lâu dài cần mở rộng diện các ngành ưu tiên để biến các nhóm ngành dịch vụ và công nghiệp thành động lực tăng trưởng kinh tế của Hà Nội.

Ngành Dịch vụ cần tập trung đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ chất lượng cao, trên cơ sở đó, giai đoạn sau năm 2020, ngành dịch vụ của Hà Nội mới có thể vững bước với vai trò là ngành động lực số 1 của Thủ đô.

Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội - 21

Ngành Công nghiệp cần tập trung thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận công nghệ mới chuyển giao từ các nước kinh tế phát triển thông qua nhiều dự án FDI. Bên cạnh đó, cũng cần phải tập trung đầu tư phát triển các khu công nghệ cao, vườn ươm doanh nghiệp để thực hiện nghiên cứu và triển khai trong nội bộ thành phố. Với hai hướng nêu trên, mạng lưới công nghiệp sạch và công nghệ cao sẽ phát triển mạnh và chính là bộ mặt của công nghiệp Hà Nội giai đoạn sau năm 2020.

Ngành Nông nghiệp cần phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với từng loại cây, con… nhằm phục vụ cho nhu cầu của Thành phố.

Dựa vào các tiêu chí như có lợi thế so sánh và có khả năng chuyển mạnh thành lợi thế cạnh tranh, đồng thời phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội Hà Nội trong tương lai, tiến hành lựa chọn các ngành sản phẩm mũi nhọn, theo đó:

(1). Đối với nhóm ngành dịch vụ, các ngành mũi nhọn có thể là:


Ngành Thương mại chất lượng cao, văn minh, hiện đại: bao gồm mạng lưới thương mại bán buôn, bán lẻ hàng hóa hiện đại văn minh dưới dạng các trung tâm thương mại bán buôn, siêu thị, chợ đầu mối, hệ thống khách sạn, nhà hàng hiện đại văn minh, thương mại điện tử.

Ngành Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ logistic và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác; Phát triển mạnh dịch vụ khoa học và công nghệ, y tế, giáo dục và đào tạo chất lượng cao, văn hóa thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội;

Đối với ngành Du lịch cần hướng vào phát triển các sản phẩm du lịch mũi nhọn như: du lịch ẩm thực, mua sắm; nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, thể dục thể thao; du lịch sinh thái; du lịch văn hóa tâm linh; du lịch làng nghề. Tập trung phát triển các vùng du lịch trọng điểm theo quy hoạch là: Trung tâm Hà Nội; cụm du lịch Sơn Tây-Ba Vì; cụm du lịch Hương Sơn-Quan Sơn; cụm du lịch núi Sóc-hồ Đồng Quan; cụm du lịch Vân Trì-Cổ Loa; cụm du lịch Hà Đông và phụ cận.

(2). Đối với ngành Công nghiệp, các sản phẩm mũi nhọn của Hà Nội bao gồm: Công nghiệp cơ khí chế tạo máy; công nghiệp dệt may và chế biến thực phẩm; công nghiệp điện tử, cơ điện tử; công nghiệp công nghệ thông tin và phần mềm; sản phẩm vật liệu mới từ công nghệ mới: sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, vật liệu không nung, gốm sứ; công nghiệp hóa chất (vật liệu nhân tạo), hóa thực phẩm và hóa dược.

(3). Đối với ngành Nông nghiệp, các sản phẩm mũi nhọn nông nghiệp của Hà Nội sẽ là các sản phẩm chất lượng cao như: rau an toàn, hoa, cây ăn quả sạch, cây cảnh chất lượng cao, có giá trị cao, lúa đặc sản, chất lượng cao làm nguyên liệu chế biến sản phẩm truyền thống phát triển, sản phẩm rừng và cây xanh phục vụ cho các đô thị, khu công nghiệp, đảm bảo môi trường sinh thái của Thủ đô.

b. Cơ cấu thành phần kinh tế

Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Khuyến khích, phát triển kinh tế tư nhân, các loại hình doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp theo quy hoạch và quy định của pháp luật.

Thừa nhận vai trò thực tế các DNNN vẫn là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, tuy nhiên cần giảm bớt phạm vi, quy mô và vai trò chi phối quá lớn hiện nay đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân phải phấn đấu trở thành khu vực dẫn đầu trong phát triển nền


kinh tế thành phố. Việc xác định khu vực tư nhân là lực lượng chính sẽ là động lực cho tăng trưởng hướng tới hiệu quả và chất lượng cao.

Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực cơ bản trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới nhằm tạo ra được những bứt phá trong phát triển kinh tế phù hợp với xu thế của nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh mới trong nước và quốc tế.

Thực hiện cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước trên địa bàn thành phố. Coi doanh nghiệp tư nhân là một trụ cột đồng nghĩa với việc buộc các DNNN và DNTN phải cạnh tranh một cách bình đẳng, theo đúng các nguyên tắc căn bản của nền kinh tế thị trường. Các DNNN và DNTN đều có được cơ hội ngang bằng khi tiếp cận tới các nguồn lực quốc gia, các cơ hội kinh doanh và cũng có thể đều bị loại ra khỏi thị trường nếu như hoạt động yếu kém. Áp dụng triệt để các nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng này, chúng ta có thể thấy một khu vực doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh hơn, và một khu vực DNNN nhỏ hơn trong tương lai. Nhỏ hơn song có thể sẽ hiệu quả hơn, mạnh và có tính cạnh tranh cao hơn. Điều này, tính tổng lại thì chắc chắn sẽ có lợi hơn cho toàn bộ nền kinh tế và cho sự thịnh vượng chung của thủ đô.

Tăng cường sự hỗ trợ đối với khu vực tư nhân để khắc phục những yếu kém của khu vực này thông qua những hình thức hỗ trợ thiết thực, sát với nhu cầu của DNTN. Tiến hành những gói hỗ trợ tổng thể, đồng bộ về thuế, đất đai, tư vấn về khoa học, công nghệ, thị trường, trình độ quản lí, đào tạo nghề gắn với các nhu cầu của doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ nên được tập trung một cách trọng điểm vào một hoặc một vài cụm doanh nghiệp trong một ngành kinh tế có tiềm năng tạo ra năng lực cạnh tranh lớn nhất. Trên cơ sở đó, các gói hỗ trợ tổng thể này có thể được nhân rộng dần sang các cụm doanh nghiệp khác. Ba chính sách sau đây cần được nhấn mạnh nhiều hơn:

- Cần xóa bỏ sự ưu tiên từ các ngân hàng thương mại nhà nước dành cho các DNNN vay vốn. Các ngân hàng không nên coi các doanh nghiệp tư nhân là những khách hàng “nhẹ kí” với những dự án nhỏ, thiếu tính khả thi và khó giám sát việc đầu tư. Cần có những hình thức cho các DNTN vay vốn trong điều kiện không có tài sản thế chấp hoặc có thể cho phép họ sử dụng khoản thế chấp linh hoạt hơn, không nên định giá trị thế chấp thấp hay tính lãi suất cao hơn khi các DNTN có tài sản thế chấp không thực sự phù hợp


để vay vốn làm cho DNTN tăng cường được khả năng vay vốn của mình. Tập trung điều chỉnh tiền thuế đất; sử dụng có hiệu quả thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập; có chính sách ưu đãi thuế đối với một số lĩnh vực, doanh nghiệp cần thiết...

- Phát triển nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế tư nhân. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân sử dụng nguồn nhân lực có trình độ, công nghệ sản xuất hiện đại... Trước mắt, cần thông tin rộng rãi về những thành tựu khoa học công nghệ mới trong nước và trên thế giới bằng nhiều hình thức thích hợp; khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ DNTN có kĩ thuật cao, có năng lực quản lí đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển.

Hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thiết lập hệ thống đào tạo nghề mang tính tiên tiến, hiện đại cho các DNTN. Các chương trình đào tạo cần được thiết kế dựa theo nhu cầu cần có của kinh tế tư nhân. Cần chấm dứt tình trạng đào tạo mang nặng mục đích giải ngân ngân sách nhà nước để hoàn thành kế hoạch, chạy theo số lượng, không coi trọng chất lượng, nhằm thực hiện được các yêu cầu phát triển của DNTN cả về ngành nghề và chất lượng.

4.3.1.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp Thành phố

Những yếu kém trong nền hành chính Thành phố mà bằng chứng là việc tụt hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) trong năm 2012 là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời gian qua.

Để nâng cao năng lực cạnh tranh cần cải cách nền hành chính, đổi mới mô hình quản lí gắn với hoàn thiện thể chế. Kiện toàn bộ máy chính quyền thành phố các cấp; xây dựng hệ thống hành chính nhà nước của Thành phố trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lí thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Chuyển chức năng từ tập trung quản lí sang cung cấp dịch vụ; xây dựng chính quyền điện tử của Thành phố đáp ứng yêu cầu quản lí kinh tế tri thức và phù hợp với tiến trình phát triển. Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy hợp lí từ cấp thành phố đến quận, huyện, thị xã. Phân cấp và ủy quyền mạnh hơn cho các sở, ngành và quận, huyện. Thiết kế, áp dụng mô hình quản lí theo chương trình mục tiêu.

Nâng cao năng lực quản lí của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức. Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, thu hút người hiền tài và tinh hoa từ cấp thành phố cho đến cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán


bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, đạo đức công vụ tốt, tính chuyên nghiệp cao. Phát triển, tăng cường đội ngũ chuyên gia tham mưu giỏi, có năng lực đáp ứng yêu cầu quản lí và phát triển. Phát hiện, thu hút nhân tài, bồi dưỡng, đào tạo một cách chủ động, cơ bản và toàn diện đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp của Thành phố. Tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ, sử dụng và quản lí cán bộ căn cứ vào hiệu quả công việc thực tế.

Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng công khai, minh bạch, phục vụ và chi phí thấp. Công khai hóa mọi thủ tục và có chế tài nghiêm đối với các cấp, các ngành tự đặt ra những thủ tục quy định gây phiền hà cho doanh nghiệp, cho nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế hành chính một dấu, một cửa ở các quận, huyện và sở, ngành. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong tất cả các lĩnh vực quản lí nhà nước tại các cơ quan quận, huyện, sở ban ngành.

Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lí đất đai, đầu tư xây dựng, quản lí vốn, tài sản của Nhà nước. Tổ chức tốt việc tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại của nhân dân. Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân, không để tồn đọng, kéo dài.

Hoàn thiện công tác quy hoạch, khắc phục tình trạng thiếu tính đồng bộ, manh mún; chưa theo kịp với tốc độ phát triển của các ngành kinh tế. Đẩy nhanh quá trình giải phóng mặt bằng, khắc phục tình trạng lấn chiếm đất công, xây dựng các công trình sai phép, không phù hợp với quy hoạch.

Cần vận dụng Quy định tại Điều 8 của Luật Thủ đô về “Quy hoạch xây dựng, phát triển Thủ đô”. Theo đó, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết và các quy hoạch khác của Thủ đô phải bảo đảm phù hợp với Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô. Bảo đảm tính thống nhất của các loại quy hoạch có liên quan trực tiếp đến Thủ đô, trong đó lấy Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô (quy hoạch không gian) làm trung tâm. Khi lập quy hoạch chi tiết trục đường giao thông mới trên địa bàn Thủ đô phải bảo đảm phạm vi lập quy hoạch mở rộng mỗi bên kể từ phía ngoài chỉ giới đường đỏ của tuyến đường dự kiến theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị.

Đổi mới tư duy, tạo bước đột phá trong nhận thức quy hoạch là công cụ quản lí quan trọng hàng đầu của chính quyền và là nguồn lực kinh tế xã hội của địa phương. Hoàn thiện “khung pháp lí” và công tác quy hoạch phát triển. Triển khai thực hiện Quy


hoạch chung phát triển Thủ đô, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển khu vực nông thôn gắn với lộ trình, kế hoạch xây dựng nông thôn mới. Trước mắt, tập trung chỉ đạo xây dựng, tổ chức thực hiện tốt quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại 18 xã thí điểm trên địa bàn để rút kinh nghiệm nhân rộng trên toàn thành phố. Coi đây là nhiệm vụ đột phá quan trọng hàng đầu trong tiến trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông thôn ngoại thành.

Hoàn chỉnh các quy định quản lí quy hoạch - kiến trúc cho các khu trong các quận nội thành, ổn định về quy hoạch sử dụng đất để thành công cụ quản lí cho quá trình xây dựng, phát triển đô thị một cách bền vững. Có kế hoạch triển khai cụ thể các quy hoạch chi tiết chuỗi đô thị Tây, Tây nam, tuyến vành đai 4, Bắc Sông Hồng để giảm tải cho nội đô cũ; lập quy hoạch cải tạo chỉnh trang quản lí 2 bên tuyến đường quan trọng nối Trung tâm với các đô thị vệ tinh. Đây là hướng đột phá tạo sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội khu vực ven đô.

Lựa chọn các đơn vị tư vấn có kinh nghiệm, năng lực chuyên môn hoặc tổ chức tuyển chọn tư vấn thiết kế các dự án: có vốn ngân sách, quy mô lớn, mức độ nghiên cứu phức tạp; đơn vị tổ chức lập quy hoạch có trách nhiệm giám sát đầy đủ có thời hạn; đơn vị tư vấn phải chịu trách nhiệm về nội dung số liệu trong các đồ án quy hoạch. Tăng cường thu hút các chuyên gia giỏi, các trường đại học, các viện nghiên cứu tham gia vào công tác lập và phản biện các đồ án quy hoạch. Tăng cường hợp tác quốc tế trong tư vấn xây dựng quy hoạch phát triển.

Nâng cao năng lực tổ chức bộ máy làm công tác lập quy hoạch và quản lí từ Thành phố đến quận, huyện, thị xã, nhất là bộ máy cán bộ làm công tác quy hoạch ở các địa phương, để đảm bảo nhiệm vụ quản lí quy hoạch. Phân cấp toàn diện cho các Quận, Huyện có đủ năng lực trong công tác lập, thẩm định phê duyệt quy hoạch, đặc biệt là các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu.

Tăng cường công tác quản lí quy hoạch. Thường xuyên kiểm tra, giám sát xây dựng theo quy hoạch, phát hiện, xử lí kịp thời các công trình, dự án xây dựng vi phạm quy hoạch xây dựng theo Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch đô thị. Hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các quy định, quy chế quản lí quy hoạch trên địa bàn Thành phố, đảm bảo thực


sự là công cụ để quản lí phát triển đô thị theo quy hoạch. Tăng cường phối hợp giữa sở, ngành, các cơ quan chuyên môn và quận, huyện, thị xã trong hệ thống quản lí quy hoạch (thực hiện chế độ 2 chiều). Phấn đấu xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới quản lí quy hoạch từ Thành phố đến các Quận, Huyện, phối hợp chặt chẽ và thống nhất.

Các cơ quan chuyên môn quản lí quy hoạch thực hiện nghiêm các quy định về quản lí đầu tư xây dựng, quản lí kinh tế, kĩ thuật theo quy định của Thành phố. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư xây dựng thông thoáng nhưng đảm bảo được yêu cầu quản lí. Huy động tiềm năng trí tuệ, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật công nghệ cao, công nghệ thông tin, tiết kiệm năng lượng trong xây dựng, phát triển và quản lí đô thị.

Tăng cường và nghiên cứu cải tiến công tác cắm mốc giới quy hoạch được duyệt để tạo thuận lợi cho chính quyền địa phương quản lí giao đất thực hiện đúng quy định theo các đồ án quy hoạch tỉ lệ 1/500, 1/2000 để cộng đồng cùng tham gia kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện quy hoạch. Tiếp tục nghiên cứu để có những cơ chế, chính sách, chế tài đặc thù phục vụ tốt cho quản lí quy hoạch, đất đai, tài nguyên, quản lí xây dựng, quản lí đô thị, môi trường.

4.3.1.5. Phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả

Nghiên cứu và vận dụng Điều 13 về phát triển khoa học và công nghệ của Luật Thủ đô. Ban hành chính sách trọng dụng nhân tài; chính sách ưu đãi để áp dụng đối với tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển khoa học và công nghệ và các nhà khoa học và công nghệ tham gia thực hiện chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm của Thủ đô trên cơ sở cân đối nguồn lực của địa phương để thực hiện.

Tập trung phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và công nghệ; bảo đảm phát huy tiềm năng, trí tuệ của các nhà khoa học và công nghệ; huy động sự tham gia, phối hợp của các viện nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức khoa học và công nghệ khác; phát triển các dịch vụ khoa học và công nghệ, nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao, chuyển nhượng công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sạch trên địa bàn Thủ đô.

Xem tất cả 209 trang.

Ngày đăng: 08/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí