Người Quê, Tình Quê Trong Thơ Lục Bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Nó không chỉ là dư vị của rượu mà còn là của đời người quê kệch. Cay đấy, đắng đấy mà lại chất chứa êm dịu bao nhiêu.

Ngọt ngào một chút men quê Cay tê cả lưỡi đắng tê cả lòng

(Về làng)

Sống giữa thời đại mà người ta quen nhiều với đồ Tây, đồ ngoại, có nhiều loại rượu được coi là thượng hảo hạng, vậy mà Nguyễn Duy vẫn yêu chút chiu cái men của rượu tăm. Ông là như vậy đấy, quê mùa vẫn là nhất. Âu cũng bởi ông là con người tình sâu nghĩa nặng, dù hoàn cảnh thế nào cũng yêu mến bản nguyên, nguồn gốc của mình hơn cả.

Qua hương vị cuộc đời, Nguyễn Duy còn muốn dãi bày tâm sự về nỗi cơ cực, vất vả của người làng quê. Ông cảm nhận được dư vị chát chua trong cuộc đời người mẹ nuôi con. Cái dư vị đã được cha ông ta đúc kết ngàn đời nay và thể hiện nhiều trong ca dao. Bậc hậu sinh tài tử Nguyễn Duy thêm một lần nữa khẳng định những trải nghiệm sâu sắc ấy.

Cái cò…sung chát… đào chua Câu ca mẹ hát gió đưa về trời

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa) Những hương vị của đời người trong thơ lục bát Nguyễn Duy luôn có sự hài hoà giữa các hương vị đối lập nhau. Đến lục bát của Đồng Đức Bốn, những hương vị ấy vẫn được thể hiện, nhưng sự hài hoà trên đây đã được thay thế bằng sự thiên lệch. Cái cay đắng, cái chát chua hắc úa xuất hiện nhiều hơn cái ngọt bùi. Sự thiên lệch xuất phát từ kinh nghiệm sống, từ cái tôi lẻ loi,

chịu nhiều cay đắng trước biến cố cuộc đời của tác giả.

Đường bùn tôi lội giữa trưa Đắng cay thì ngậm xót chua thì cầm

(Chín xu đổi lấy một hào) Đồng Đức Bốn đã cảm nhận cuộc đời bằng tâm hồn một kẻ giang hồ trải nghiệm. Một người từng đi khắp đó đây, thấy muôn chuyện của thế sự. Có lúc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

ông hăng hái vật lộn với cuộc sống, có khi lại dửng dưng, nhìn đời bằng nửa con mắt. Nhà văn Như Bình đã nhận xét: “Người đàn ông sinh ra từ đồng ấy từng liều mạng với đời. Một mất một còn để tồn tại, để quay quắt đớn đau giành giật cho mình một sự cứu rỗi như là một chân lí sống ấy là thơ” (7).

Cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều cảm nhận sâu sắc những hương vị quen thuộc của chốn đồng nội. Dù đó là những hương vị toát lên từ cảnh vật hay từ cuộc sống của người dân quê đều được hai nhà thơ này thể hiện đặc sắc trong thơ lục bát bằng cảm xúc trong sáng, tinh tế. Những ai đã từng sống ở quê, hẳn sẽ hiểu và dễ đồng cảm với suy nghĩ, trải nghiệm trong thơ lục bát của họ.

Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại Qua thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn - 10

2. NGƯỜI QUÊ, TÌNH QUÊ

Người quê, tình quê trong thơ Việt Nam hiện đại

Nhìn chung về thơ ca Việt Nam, những bài thơ nói về con người thuần chất Việt, tình cảm thuần Việt vẫn là những thi phẩm để lại ấn tượng cho người đọc. Những con người lam lũ trên mảnh đất mang nền văn hoá nông nghiệp lúa nước khi đi vào thơ ca ân tình và đẹp biết chừng nào. Những người ông, người bà, người cha, người mẹ, người chị…trong thơ gần gũi với tình cảm tươi sáng, cao đẹp lạ thường.

Khắc hoạ hình ảnh một người mẹ quê tiễn con gái đi lấy chồng, nhà thơ Nguyễn Bính đã thể hiện thế mạnh về tâm hồn chân quê trong thơ mình. Như bao người mẹ khác, người mẹ ấy bên ngoài tỏ ra cứng cỏi, từng trải nhưng sâu tận đáy lòng là một nỗi buồn và tình yêu con vô hạn(Lòng mẹ). Hay hình ảnh người cha, người mẹ của chính nhà thơ đang cảnh quạnh hiu, đơn vắng. Những công việc ngày mùa cũng không làm họ vơi đi nỗi buồn. Nó cứ được tiến hành đều đều, lặng lẽ trong nỗi nhớ con da diết.

Con đi quạnh cửa quạnh nhà Cha già đập lúa, mẹ già rũ rơm

(Thư gửi thầy mẹ) Bài thơ cũng là nỗi lòng thương cha, nhớ mẹ, sự day dứt của một đứa con xa quê chưa đền đáp được công sinh thành.

Người vợ quê cũng để lại nhiều cảm xúc cho thi sĩ. Họ vừa là người vợ tốt, vừa là người mẹ hiền. Những người vợ vẫn kế tục được nhiềù đức tính, đức hạnh từ truyền thống. Chịu mọi cơ cực, lao đao vì chồng vì con.

Sáng giăng chia nửa vườn chè Một gian nhà nhỏ đi về có nhau Vì tằm tôi phải chạy dâu

Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay

(Thời trước)

Nhà thơ Bằng Việt, khi đi xa quê vẫn nhớ về bếp lửa cùng hình ảnh người bà đầm ấm. Ngọn lửa nhỏ và tình cảm bà cháu dưới mái tranh nghèo hiện lên trong tâm trí nhà thơ, tiếp thêm sức mạnh cho ông vững bước trên đường đời. Đó là hình ảnh người bà của riêng thi sĩ nhưng thật gần, thật thân thương với mỗi chúng ta.

Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

(Bếp lửa)

Nhà thơ Tế Hanh yêu tha thiết những con người quê hương, những con người mang dáng vẻ đặc trưng riêng của một làng chài ven biển.

Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

(Quê hương)

Không chỉ trong thơ của thi sĩ đồng quê, ngay thơ ca cách mạng, thế giới thơ ca tưởng như chỉ dành riêng cho những người chiến sĩ, những người lính mang lí tưởng cứu nước cao cả thì hình ảnh những người quê vẫn mộc mạc, đời thường. Những người lính ra đi chiến đấu vì quê hương đất nước thực ra vẫn là những con người dân dã. Họ rời làng quê, bỏ lại phía sau gia đình, người thân, giếng nước gốc đa, mong tìm lại cho quê hương cuộc sống thanh bình. Cùng có xuất thân quê kệch, nghèo khó nên những người lính dễ gắn bó, thành những người đồng chí, đồng đội sát cánh chiến đấu, sống chết có nhau.

Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

(Đồng chí- Chính Hữu)

Những người bà, người mẹ tuy không trực tiếp ra trận chiến đấu nhưng luôn là chỗ dựa vững chắc để những người chồng, người con yên tâm ngoài trận tuyến. Là nơi những người lính tạm dừng chân tiếp thêm sức mạnh, uống bát nước mát lành trên con đường hành quân. Tố Hữu, nhà thơ cách mạng tiêu biểu đã khắc hoạ được không ít hình ảnh những con người như thế trong thơ ca của mình. Đó là hình ảnh một người bầm chân lấm tay bùn giữa ruộng cấy mùa đông hiện lên thân thương trong tâm trí người con nơi chiến trận.

Con đi trăm núi ngàn khe Không bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm

Con đi đánh giặc mười năm Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi

(Bầm ơi)

Những người mẹ, người bầm ấy khi cần thiết lại trở nên mạnh mẽ phi thường. Họ sẵn sàng xả thân vì đất nước, vì quê hương, vì những người con thân yêu. Trước họng súng quân thù, người mẹ vẫn hiên ngang, mang tầm vóc cao đẹp vượt lên trên tội ác man rợ của quân xâm lược. Trong bài thơ Bà má Hậu Giang, Tố Hữu đã dựng lên bức tượng đài bằng thơ về người mẹ Việt Nam anh hùng. Người mẹ quê nghèo khó, gầy gò, run rẩy như tàu lá chuối khô mà dáng đứng vững vàng, mạnh mẽ tới không ngờ. Vì sự sống còn của những đứa con chiến đấu, mẹ anh hùng, sẵn sàng hy sinh cả thân mình.

Má hét lớn lũ bay đồ chó Cướp nước tao cắt cổ dân tao Tao già không sức cầm dao

Giết bay có các con tao trăm vùng

Những con người làng quê và những tình cảm ấm áp, trong lành đã mang lại cho thơ ca Việt Nam những giá trị đặc sắc. Chúng ta có thể điểm danh và tập hợp đầy đủ các khuôn mặt, hình ảnh những người dân lao động của làng quê trong thơ Việt Nam hiện đại. Những người ông, người bà, người cha, người mẹ, những cô thôn nữ, những anh trai làng, những chị, những em… Ở mỗi tác giả, mỗi hình ảnh đó đều mang một dáng vẻ đặc sắc khác nhau. Nhưng dù thế nào chăng nữa, khi bắt gặp những hình ảnh như thế, chúng ta không khỏi bồi hồi nhớ về cuộc sống nơi làng quê Việt dân dã.‌

2.2. Người quê, tình quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

2.2.1. Tấm lòng đối với làng quê

Quê hương rất gần gũi, mến thương đối với con người, nhưng quê hương cũng khó định hình. Nó vừa cụ thể, vừa chung chung. Ở ngay cạnh chúng ta nhưng không dễ gì định nghĩa được nó. Quê hương đã gợi hứng cho biết bao thi phẩm đặc sắc. Nó là nỗi nhớ, niềm thương của mỗi nhà thơ. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những người yêu thương quê hương rất mực. Những cảm xúc với quê hương của họ đã thăng hoa vào thơ lục bát, ngân lên thàmh những tiếng quê mùa mượt mà, mộc mạc.

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn yêu hơn cả là cái làng quê cụ thể, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước đây, nhà thơ Nguyễn Bính sau nhiều năm xa quê trở về thôn cũ là để tìm lại những năm tháng thanh bình, yên ả:

Anh về quê cũ thôn Vân

Sau khi đã biết phong trần ra sao Từ nay lại tắm ao đào

Rượu đâu mà cất, thuốc lào nào phơi

(Anh về quê cũ) Lòng yêu quê chân thành cùng những cảm nhận tinh tế cũng đã giúp Nguyễn Duy nhận ra những vẻ đẹp vốn không dễ gì nhận ra. Cũng nhờ điều đó, Nguyễn Duy mới có thể khắc hoạ nên những bức tranh quê tuyệt đẹp

trong thơ lục bát của mình. Phải yêu quê vô ngần, khi trở về làng, Nguyễn Duy mới bồi hồi, xúc động khi được ngắm nhìn, đón nhận những gì xa cách bấy lâu. Nhà thơ thấy mình được tắm lại những cảm giác ngọt ngào một thuở.

Làng ta ở tận làng ta

Mấy năm một bận con xa về làng Gốc cây hòn đá cũ càng

Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay

(Về làng)

Cùng là những đứa con xa quê trở về quê cũ, nhưng Nguyễn Bính và Nguyễn Duy có sự khác nhau về tư thế. Nguyễn Bính xa quê để nếm trải những phong trần cuộc đời giang hồ tha hương. Còn Nguyễn Duy trở về làng khi đã trải qua cuộc chiến cam go của dân tộc. Làng quê trong thơ lục bát của ông vì thế cũng có nét khác với làng quê trong thơ Nguyễn Bính. Nó không chỉ là miền quê thanh bình, mộc mạc cùng những cơ cực nữa mà đã nhuốm màu đau thương của lửa đạn. Nhìn quê hương trong đau thương, nhà thơ không khỏi xót xa, đau đớn.

Chiến tranh như trận cháy làng Bà con ta trắng khăn tang trên đầu

Vẫn đồng cạn vẫn đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa

(Về làng)

Cùng nguồn cảm hứng như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn thẳng thắn khẳng định, giữa bao thứ “bùa mê”, bao điều lôi cuốn ở đời, có gì đáng mến, đáng quí bằng quê nhà. Tình yêu quê nhiều khi tha thiết chứa chan, quặn thắt cõi lòng thi sĩ.

Bao nhiêu là thứ bùa mê

Cũng không bằng được nhà quê của mình

(Gửi Tân Cương)

Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn và những nhà thơ đồng quê khác, đều yêu quê bằng tấm chân tình mộc mạc. Thật khó mà có thể xác định, trong số họ, ai yêu thương quê hương nhiều hơn ai. Chỉ có thể biết rằng, cách yêu quê của mỗi người một khác, không ai giống ai. Họ yêu cái miền quê nơi họ đã sinh ra, yêu cả những miền quê Việt mà họ từng đi qua. Những nơi ấy đều là một phần không thể thiếu của làng quê Việt Nam nói chung. Nguyễn Duy yêu xứ Huế, yêu Đồng Tháp Mười, yêu mũi Cà Mau…, yêu những làng quê mà ông từng qua. Hay nói một cách chung nhất, ông yêu quê, yêu tất cả những làng thôn trên mảnh đất Việt Nam này. Đồng Đức Bốn đâu chỉ biết yêu riêng cái làng Moi ở Hải Phòng. Ông yêu Lào Cai, yêu xứ Huế, yêu Đà Lạt… và yêu quê bằng cảm xúc chung của mọi người dân xứ Việt.

Lúa mùa chin chín trong sương Chơi vơi giữa một trời hương tiếng gà

Chuông chùa đếm giọt mưa sa Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn

(Nhà quê)

Khi ở giữa làng quê, biểu hiện tình cảm của thi sĩ dành cho quê nhà là sự yêu mến, gắn bó. Xa quê rồi, tình cảm đó sẽ chuyển hoá ngay thành nỗi nhớ da diết không nguôi. Nhớ quê thực ra cũng là một biểu hiện cụ thể của lòng yêu mến quê nhà. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn luôn phải sống xa quê. Trong những thời khắc ấy, làng quê luôn hiện lên chan chứa trong họ. Cảm xúc dành cho quê nhà đã bật lên thành những vần lục bát xúc động lòng người. Nhà thơ Nguyễn Duy đã khái quát thành một triết lí sâu sắc về bóng hình quê nhà trong lòng mỗi người quê:

Có gì lạ quá đi thôi

Khi gần thì mất, xa xôi lại còn

(Thơ tặng người xa xứ)

Người lính Nguyễn Duy trong những cuộc hành quân qua khắp các miền tổ quốc, đã mang theo nỗi nhớ quê nhà thiết tha. Nỗi nhớ ấy in sâu nơi trái tim

thi sĩ. Nó cứ lẩn quất, vương vấn không nguôi. Lúc man mác, nhẹ nhàng, khi lại dâng trào, ứ nghẹn.

Nghe rừng í ới gọi nhau

Nhớ ơi buổi sớm đẫm màu mạ non Nhạt lưng cơm nhớ mảnh vườn

Xanh lam rau muống xanh rờn mùng tơi

(Người con trai)

Quê nhà hiện lên trong nỗi nhớ của người con xa quê ở nhiều cung bậc tình cảm khác nhau. Những gì đẹp nhất, ấn tượng nhất luôn là hành trang trên bước đường đời mỗi người. Khi xa quê, có ai lại không nhớ, không thương, không chạnh lòng về một điều gì đó. Nó như nguồn mạch ngầm chảy sâu dưới đáy tâm hồn mỗi người. Nguyễn Duy là người đi nhiều. Từng là người lính hành quân trên những chặng đường khác nhau. Rồi lại được sống trong thời bình, thời hiện đại, đi thăm mọi vùng miền của tổ quốc. Đặc biệt, nhà thơ còn được đi tới nhiều đất nước. Vì thế, quê hương, đất nước trong thơ lục bát của ông còn được nhìn từ phía xa, trên một đất nước khác. Nét cảm xúc này ở nhà thơ chân quê trước đây quả là chưa có.

Dù ở đâu Tổ Quốc trong lòng Cột biên giới đóng từ thương đến nhớ

(Nhìn từ xa…Tổ Quốc) Khi đi xa tổ quốc, khi đi ra ngoài địa phận mảnh đất hình chữ S, nỗi nhớ làng quê đã hoà chung làm một với nỗi lòng thương nhớ đất nước. Bài thơ tuy để lại nhiều tranh luận cho giới phê bình, nhưng nổi bật lên trên hết vẫn là tấm lòng yêu nước, yêu quê của nhà thơ. Nỗi nhớ, tâm trạng ấy bật lên từ đáy

lòng thi sĩ, nhưng cũng là mạch cảm xúc bắt nguồn từ trong ca dao.

Quê hương trong nỗi nhớ của Đồng Đức Bốn cũng tự nhiên, trong sáng. Những vần thơ lục bát được cất lên ngọt ngào, êm ái, có cả cay đắng lẫn ngọt bùi là tiếng lòng của một thi sĩ mang nhiều tâm sự, duyên nợ với làng quê. Không thể hiện trong thơ mình nỗi nhớ quê nhà của người lính xông pha nơi chiến trận, cũng không nhớ quê từ một đất nước xa xôi nào đó nhưng nỗi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/11/2023