Quê Hương Đất Nước Trong Thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan

(Cuối xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

Đến cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, ta thấy xuất hiện những vần thơ đẹp viết về thiên nhiên trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Và quả đúng như một lời nhận xét: “Truyện Kiều là cái gì rất Việt Nam, đậm đà tình nghĩa Việt Nam, tình nghĩa quê hương xứ sở”. Tình yêu thiên nhiên đất nước ấy được thể hiện một cách thầm kín qua việc ngợi ca cảnh đẹp bốn mùa của quê hương:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông

Tiếp nối mạch cảm xúc ngợi ca những nét đẹp của quê hương xứ sở, nhóm thi sĩ đồng quê của phong trào thơ Mới với những đại diện tiêu biểu như Anh Thơ, Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ… đã có những bài thơ hay viết về quê hương. Làm sao có thể quên được một bức tranh quê đẹp đến say lòng trong Bến đò ngày mưa của Anh Thơ:

Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa Và dầm mưa dòng sông trôi dào dạt Mặc con thuyền cắm lại dậu trơ vơ

Vẫn sử dụng những thi liệu quen thuộc mang đậm dấu ấn văn hóa làng quê với những hình ảnh gần gũi, thân thương: dòng sông, bến bãi, con đò… Anh Thơ đã khắc họa thành công một góc không gian quê Việt tự bao đời.

Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn - 7

Được mệnh danh là thi sĩ “quê mùa” (Hoài Thanh), Nguyễn Bính lại góp thêm một hương vị riêng trong việc cảm nhận và thể hiện hồn quê dân tộc. Quê hương trong thơ Nguyễn Bính là hình ảnh thiên nhiên và con người chất phác, mộc mạc như khoai lúa đã làm bâng khuâng bao thế hệ độc giả.

Đến thơ ca cách mạng, khung cảnh làng quê Việt được khắc họa với nhiều sắc màu khác nhau nhưng đều thể hiện niềm tự hào dân tộc và tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng:

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)

Chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những nhà thơ như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn đã tìm về với cội nguồn dân tộc, trở về với những giá trị đạo đức, thẩm mỹ từ lâu đời. Qua những sáng tác của mình, họ tìm về với nguồn cội để kí thác tâm sự, những nỗi niềm của cả một thế hệ thi sĩ trong thời buổi văn hóa dân tộc đang có nguy cơ bị mai một, mất đi bản sắc dân tộc. Hay nói cách khác, cảm hứng về quê hương đất nước với hình ảnh làng quê mang những nét đẹp văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc đã trở thành nguồn mạch mát trong nuôi dưỡng biết bao hồn thơ Việt trong đó có hồn thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.

2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Yêu quê hương, đất nước là một tư tưởng cao đẹp trong thơ ca tự bao đời. Cả hai nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn đều tìm chỗ đứng cho riêng mình trên mảnh đất quê hương màu mỡ để từ đó khẳng định bản lĩnh của một nghệ sĩ chân chính thực sự. Hãy cùng lắng nghe lời tâm sự từ đáy lòng của hai nhà thơ này:

Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội Có một miền quê trong đi đứng nói cười

(Quê hương – Nguyễn Duy)

Bao nhiêu là thứ bùa mê

Cũng không bằng được nhà quê của mình

(Gửi Tân Cương – Đồng Đức Bốn)

Đó là những lời bộc bạch từ sâu thẳm tâm linh khẳng định tình yêu sâu nặng đối với quê hương và cũng là nguyên nhân dẫn tới con đường thơ của hai tác giả. Quê hương chính là cội nguồn, là cái nôi hình thành và nuôi dưỡng một con người, nơi lưu giữ bao kỉ niệm vui buồn thuở ấu thơ, nơi mẹ cha ta đang tần tảo mưa nắng từng ngày…

Về với làng quê, về với cội nguồn sinh dưỡng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn không đi vào khai thác, thể hiện những hình ảnh kì vĩ, lớn lao mà tập trung ngòi bút vào những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị chốn quê mùa - nơi mà họ đã sống hoặc đã đi qua trong những cuộc hành quân hay những chuyến đi của cuộc đời. Cảnh sắc quê hương trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn hiện lên trước hết với hình ảnh của những cánh đồng quê, khu vườn quê mang những nét đặc trưng riêng, mang cảm xúc và tâm hồn quê mùa của thi sĩ. Đó còn là hình ảnh của gốc lúa, bờ tre hồn hậu, là khúc sông quê tắm mát với con đò hiền lành đợi khách sang sông, là mảnh trăng cong đong đưa trước gió… Đó còn là những phiên chợ quê với cảnh trao đổi, bán mua đạm bạc gắn với cuộc sống bao đời nay của những cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Và cũng không thể không kể đến những con vật hết sức gần gũi, quen thuộc chốn thôn quê: con cò, con ve, con cuốc… Tất cả đều được khắc họa với một vẻ đẹp thật thanh bình, nên thơ.

Thiên nhiên quê trong thơ Nguyễn Duy luôn được nhìn nhận trong mối quan hệ gắn bó với con người, là biểu tượng cho con người Việt Nam. Cây tre trong bài Tre Việt Nam - một hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ luôn bao bọc, chở che cho mỗi ngôi làng quê thâm nghiêm cổ kính, lặng lẽ chứng kiến, chia sẻ mọi thăng trầm của dân tộc, mọi buồn vui của con người… đã

trở thành một biểu tượng đẹp cho những phẩm chất cao quý của dân tộc và con người Việt Nam:

Thân gầy guộc lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

….

Lưng trần phơi nắng phơi sương Có manh áo cộc tre nhường cho con

Tre là hiện thân cho những đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh, anh dũng, kiên cường… của con người Việt Nam trên mảnh đất quê cằn cỗi, nghèo khó. Và Nguyễn Duy phải là nhà thơ thấm cảnh quê, “phải chân quê, chân cảm lắm mới vận vào thơ được”[47], mới tìm ra được mối liên kết vô hình giữa con người và cảnh vật. Với hình ảnh cây tre, có thể nói Nguyễn Duy đã thật sự thành công khi xây dựng một biểu tượng đẹp về thiên nhiên và con người Việt Nam, mặc dù “có biết bao nhà thơ, nhà văn đã viết về cây tre Việt Nam, nhưng cách nói, sự liên tưởng, nhân hóa mang tính hình tượng độc đáo kiểu Nguyễn Duy thì quả là chưa gặp ở bài thơ nào, ở tác giả nào” [23].

Là người yêu quê, gắn bó sâu nặng với những gì giản dị, gần gũi, thân thuộc nên trong thơ Nguyễn Duy ta thường bắt gặp tầng tầng lớp lớp những hình ảnh quen thuộc của xứ đồng. Mảnh vườn quê trong thơ Nguyễn Duy hiện hình sinh động với vẻ đẹp của những cảnh sắc rất đời thường, mộc mạc nơi quê mùa. Đi qua vùng đất thơ mộng của xứ Huế, nhà thơ trào dâng một cảm xúc nhớ bạn. Và hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh của những gì thân thuộc nhất với hàng dâu loáng thoáng cùng đồi hoa mơ trắng:

Bến Tuần loáng thoáng vườn dâu Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi

Lối mòn đá cuội rong chơi

Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ

(Nhớ bạn)

Cảnh sắc làng quê trong thơ Nguyễn Duy có khi chỉ là những loài cỏ dại mọc dọc đường xa nhưng cũng đầy lưu luyến, nhớ thương:

Mùi hương hoang dại thơm lừng từ thăm thẳm núi bỗng dưng bay về

(Hoa dại)

Nhiều lúc nhà thơ cực kì say mê, thích thú làm bạn với những loài côn trùng, với cây cỏ hoang dại đồng nội. Ta cảm nhận sâu sắc niềm thỏa thuê, vui thích của tác giả giữa không gian thiên nhiên khoáng đạt, rộng mở:

Dang tay ngang mặt thảo nguyên Dang chân ta ngả mình bên côn trùng Ngỡ bay lên khoảng không cùng

Lại đằm xuống cỏ giữa đồng hoang vu

(Cỏ dại)

Nói tới cảnh sắc làng quê là phải nhắc đến những cánh đồng lúa bạt ngàn trong nắng vàng với những bông lúa nặng trĩu bông mang theo biết bao ân tình của người trồng lúa:

Đồng chiêm phả nắng lên không Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng

Gió nâng tiếng hát chói chang Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời

(Lúa chín)

Thơ Nguyễn Duy bắt rễ sâu trong cội nguồn dân dã và vững bền của làng quê nên anh trân trọng biết bao sự sống của từng hạt lúa quê hương:

Phải đất nghèo nên hạt lúa giàu tình Biết thương người như người thương lúa

Quen nắng bỏng dẫu dầm vào lửa Lúa vẫn nguyên lành màu xanh

(Hạt lúa cháy nảy mầm)

Qua hình ảnh của hạt lúa cháy nảy mầm ta cảm nhận được sự sống mãnh liệt, bền bỉ của làng quê nghèo đói, mộc mạc, cực nhọc mà hồn hậu bao dung hay đó cũng chính là sự sống của một hồn thơ đậm đà hương sắc đồng quê, dân dã.

“Quê hương”, hai tiếng ấy đối với Nguyễn Duy vô cùng thiêng liêng. Vì vậy khi viết về cảnh vật chốn làng quê, Nguyễn Duy thường cảm nhận và đưa vào thơ những gì bình dị, đời thường, mộc mạc nhất như cái bản chất vốn có của chốn quê mùa thôn dã, thậm chí đó còn là “Cái điều ở người khác đôi khi chỉ là chuyện thoáng qua. Nhưng ở anh, nó lắng sâu và dường như dừng lại” (Hoài Thanh). Chính bởi lẽ đó, Nguyễn Duy đã chắt chiu đến từng li để làm nên sự sống cho thơ. Anh gom nhặt tất cả: Hương đồng, mùi bùn, màu đất… gom góp tất thảy những nhọc nhằn, lam lũ để gửi vào thơ. Vì thế, ta đâu có gì xa lạ với hình ảnh khu vườn quê quá đỗi dân dã, mộc mạc trong thơ Nguyễn Duy.

Cũng giống như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn xây dựng trong thơ mình một khu vườn quê với những hình ảnh cây cỏ, hoa lá rất đỗi quen thuộc. Đó là những hàng rào quê thanh mảnh được tô điểm bằng những thứ cây thanh nhã, giản dị như cây rau, cây thuốc hay một vài loài hoa: cúc tần, tầm xuân, râm bụt… Thậm chí, ở những bờ rào ấy có khi chỉ là những thứ cây lá, những loài hóa, loài cây nghèo nàn chốn quê mùa nhưng lại gắn bó với tiềm thức văn hóa dân gian:

Khổ thân cho cả bờ rào

Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

Như nhiều nhà thơ khác, Đồng Đức Bốn đã tiếp thu và sáng tạo nhiều hình ảnh quen thuộc đã trở thành biểu tượng trong thơ ca dân gian và thơ ca truyền thống. Đó là hình ảnh cây đa đầu làng hiện diện như một dấu mốc quan trọng để nhận ra làng quê từ phía xa hay những bụi tầm xuân muôn đời trong ca dao:

Bây giờ chờ đợi tháng ba Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng

(Chờ đợi tháng ba) Vẫn còn thấy bụi tầm xuân

Áo em phơi để nhạt dần nắng mưa

(Qua nhà người yêu cũ)

Cũng viết về những bờ tre, bụi dứa, tuy chưa thật cụ thể như trong thơ Nguyễn Duy nhưng ta vẫn nhận ra ở đó những suy nghĩ về sự tan vỡ của những giá trị truyền thống, tâm trạng buồn thương, xót xa trước những giá trị xưa cũ của con người bị mờ dần trong cuộc sống hiện tại:

Bờ tre bụi dứa tan rồi Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu

(Cuốc kêu)

Khu vườn quê trong thơ Đồng Đức Bốn còn có sự xuất hiện trở đi trở lại của nhiều hình ảnh cây cỏ nơi thôn dã như vườn cau, ao cá, cánh bèo, cây bồ kết, hoa dong riềng… Tất cả đều hiện lên thật hiền hòa, gần gũi. Thế nhưng những thứ cây mọc trên mảnh đất nhà quê Đồng Đức Bốn còn gợi sự tàn úa, muộn màng của một mối tình không trọn vẹn:

Mỗi lần cây cải nở hoa

Thì tôi lại nhớ người ta chưa về

(Chuông chùa kêu trong mưa)

Nói đến cây cỏ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn, ta không thể không nhắc đến một thứ cây kì lạ không có tên gọi về chủng loại, hình hài, màu sắc

cụ thể nhưng có cảm giác nó luôn có mặt ở khắp mọi nơi trên mảnh đất quê, đó là gai. Với hình ảnh này ta cũng nhận thấy sự khác biệt rõ rệt của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn trong việc khắc họa cảnh sắc quê hương: “Lục bát Đồng Đức Bốn ngoài sự bình dị, mượt mà còn gợi ra sự gai góc, sắc nhọn của những chìm nổi đời người” [43, tr. 40].

Gai quê hiện hữu ở khắp mọi nơi. Những cây bồ kết lắm gai, hoa có gai, bụi tre gai, bờ rào gai, rồi xéo gai, gai rào ngõ quê… đều mang đậm một sắc thái quê mùa, thôn dã nhưng đồng thời nó cũng gợi lên một cái gì đó đầy gai góc, sắc cạnh.


hay:

Chạy mưa không chạy qua rào Sao áo em bị gai cào rách lưng

(Chạy mưa không chạy qua rào)


Đã nông lại lắm gai rào Tưởng trong sạch thế mà sao vẫn bùn

(Đi qua bến lở sông bồi)

Cây cỏ trong thơ Đồng Đức Bốn không có cái bé bỏng, cam chịu như

trong ca dao mà dường như sống táo bạo hơn, sắc nhọn hơn. Đó phải chăng là cảm quan, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời nhiều biến động, khó hòa nhập của cuộc sống hiện tại nhiều bon chen, xô bồ, là “quan niệm về một cuộc sống nhiều nỗi lo, nhiều nguy cơ của anh” [32, tr. 78].

Như vậy, có thể thấy khu vườn quê trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn được khắc họa một cách thật chân thực, sinh động dưới ngòi bút tài hoa của các nhà thơ đồng quê. Từ những cây cỏ, hoa lá bình dị chốn quê mùa, dân dã các thi sĩ đã thổi hồn mình vào sự vật, gửi gắm trong đó những suy nghĩ cảm xúc trước cuộc đời và thể hiện một tình yêu quê hương đất nước sâu lắng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/02/2023