Hành Trình Thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

sống dân tộc được văn học miêu tả và thể hiện: Màu sắc dân tộc ở thiên nhiên và cảnh quan đất nước; những nét độc đáo của các giá trị và định hướng giá trị vốn tiêu biểu cho dân tộc, những nét độc đáo về cách nhìn cách cảm của dân tộc; tóm lại là tâm lí và tính cách dân tộc được thể hiện trong văn học.

Cùng chung quan điểm trên, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học giải thích một cách cụ thể hơn: Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung cho đến hình thức của sáng tác văn học. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết, tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh “màu sắc” dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Đọc sáng tác của một dân tộc, ta như sống cuộc sống của dân tộc đó với những đặc điểm của thế giới riêng. Tuy nhiên, tính dân tộc của văn học không chỉ biểu hiện ở những vật thể, đường nét, màu sắc có thể nắm bắt được. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, thể hiện ở tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời. Đó là những yếu tố tương đối bền vững được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh địa lí và con đường phát triển lịch sử riêng của dân tộc, là một phẩm chất chỉnh thể biểu hiện trong một phức hợp liên kết các phẩm chất nhất định.

Tính dân tộc còn biểu hiện ở hình thức văn học. Mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn dân tộc mình.

Tính dân tộc còn thể hiện ở quá trình phát triển lịch sử độc đáo của văn học cùng các đặc sắc do quá trình lịch sử ấy mang lại. Ví dụ, có thể nhận thấy sự khác biệt về văn học dân tộc giữa chủ nghĩa hiện thực Nga và chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỉ XIX.

Gớt đã từng khẳng định một nghệ sĩ chỉ có thể được coi là một nhà văn mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta “thấm nhuần tinh thần dân tộc”. Nói như vậy, một tác phẩm đạt đến đỉnh cao, là đại diện của nền văn học

dân tộc phải là tác phẩm không những xây dựng được “những hình tượng văn học vừa đơn lẻ, vừa có thể mang tính khái quát, điển hình cho dân tộc ấy” mà “tinh thần dân tộc thấm sâu vào toàn bộ các yếu tố của tác phẩm khiến cho người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm như thấy được cả “mùi hương của đất đai”, ở mỗi từ ngữ người đọc có thể cảm nhận thấy “dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật, một ý nghĩa hôm nay, và một ý nghĩa mang từ thời ấu thơ đầy xúc cảm, trong những từ thân thuộc nghe vừa ngon lành, vừa hữu hình, ý vị”” [40, tr. 77-78].

Bản sắc dân tộc ở văn hóa nói chung, ở văn học nói riêng, không phải là một đại lượng nhất thành bất biến, cũng không có sẵn từ khởi thủy. Con đường hình thành của nó không phải theo lối tự sinh, biệt lập, trái lại, từ trong giao lưu, tiếp nhận, cộng sinh, tạp giao, đồng hóa với các nhân tố văn hóa, văn học từ bên ngoài dân tộc, rồi từ đó sinh thành, phát triển, tạo ra bản sắc. Những đổi mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng từ các yếu tố ngoại lai, một khi đã có thành tựu, lại mang vào văn hóa, văn học dân tộc những phẩm chất và truyền thống mới, phát triển và đổi mới nó. Sự phát triển văn học, nhất là văn học hiện đại, gắn liền với thành tựu của những cá tính sáng tạo kiệt xuất, chính những thành tựu của họ đã góp phần quyết định vào việc duy trì, phát triển, làm giàu bản sắc dân tộc cho văn học.

Ở cuối thể kỉ XX, xu thế giao lưu, hòa nhập của các nền văn hóa, văn học, xu hướng thế giới hóa – trở nên một tất yếu không tránh khỏi. Đồng thời chính quá trình này lại đề ra vấn đề duy trì tính đa dạng văn hóa, duy trì những giá trị mang bản sắc dân tộc trong thế giới hiện đại.

Tóm lại, có thể tổng kết một vài ý chính về khái niệm bản sắc dân tộc như sau: Bản sắc dân tộc hay tính dân tộc của văn học mang nội dung lịch sử và phải được xem xét theo quan điểm lịch sử. Nó được hình thành trong cả một quá trình lâu dài mà những cái mốc quan trọng là sự hình thành dân tộc và sự vận dụng ngôn ngữ dân tộc làm ngôn ngữ văn học. Trong suốt quá trình

ấy, nó không ngừng được phong phú thêm bởi sự tiếp thu tinh hoa của nước ngoài. Vì vậy, một sáng tác văn học có tính dân tộc cao phải vừa kế thừa được truyền thống văn học dân tộc, vừa đổi mới và có đóng góp vào sự phát triển của truyền thống ấy. Nói như vậy, tính dân tộc hiện nay là sự kế thừa có chọn lọc, có cải biến, có phát triển tính dân tộc trong lịch sử, là sự hấp thụ tất cả những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Tính dân tộc hiện nay là một sự hài hòa cả mới lẫn cũ. Cái mới không có nghĩa là cái gì từ bên ngoài đem vào. Cái từ ngoài đem vào phải phù hợp với ta, phải được đồng hóa thành cái của ta. Như vậy, cái mới không còn là “của người” nữa mà chính là “của ta” rồi. Cái mới cũng là cái cũ của ta được chọn lọc và hiện đại hóa. Mặt khác, cái cũ không phải chỉ là cái bản sắc di sản cũ của dân tộc ta mà còn là cái kho tàng quý báu về tư tưởng và văn hóa của nhân loại từ bao nhiêu đời nay nữa. Vì vậy, quan niệm cho rằng cũ là tính dân tộc, mới là không phải tính dân tộc là một quan niệm mơ hồ, không chính xác [36, tr. 17]. Cũng cần phải chú ý tới những biểu hiện phong phú, đa dạng của tính dân tộc trong sáng tác văn học trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Có như vậy mới có thể đánh giá một cách đúng đắn, tổng thể, toàn diện về tính dân tộc trong văn học. Đây cũng là mục tiêu của đề tài đặt ra khi xem xét những biểu hiện của tính dân tộc trong sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Vấn đề này sẽ được người viết tiếp tục triển khai trong những chương tiếp theo của luận văn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Khi nói đến những chặng đường sáng tạo của một tác giả, nhà thơ P.Antokolxky cho rằng: “Cũng như trong bất kì một lĩnh vực nào cái quan trọng nhất trong nghệ thuật là quá trình, là sự hình thành, là cuộc đấu tranh, là sự tìm tòi, là một dòng nước không bao giờ cạn tự khơi lấy một dòng sông”. Để tìm hiểu về hành trình sáng tạo và những quan niệm nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy cũng như Đồng Đức Bốn, chúng tôi cho rằng không thể chỉ

Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn - 4

dừng lại ở phạm vi xem xét từng tác phẩm của các tác giả mà phải nhìn nhận sự nghiệp sáng tác của họ như một hành trình mà mỗi tác phẩm chỉ là một sự kiện, một mắt xích, một cột mốc trong hành trình đó.

1.2.1. Thơ Nguyễn Duy

1.2.1.1. Hành trình sáng tạo

Chúng ta biết rằng, thời đại Nguyễn Duy sống và sáng tạo là một thời đại đầy biến động của lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam. Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại dồn dập nhiều biến cố, sự kiện đến vậy. Nó đã có những tác động sâu sắc đến đời sống văn học, mà trước hết là quan điểm, tư tưởng - nghệ thuật của các nhà văn trong đó có Nguyễn Duy. Vốn rất nghiêm túc với nghề nghiệp, lại luôn khao khát khẳng định mình, Nguyễn Duy không ngừng trăn trở làm sao viết cho hay, cho dễ đi vào lòng người. Suy nghĩ ấy đã thôi thúc ông phải tìm tòi, đổi mới và sáng tạo. Trong kháng chiến chống Mỹ, những nhà thơ cùng thời với Nguyễn Duy thường nói nhiều về cái chung, nhân danh cộng đồng, dân tộc. Trong khi đó, Nguyễn Duy lại lặng lẽ một lối đi riêng - tìm về với nguồn cội dân gian. Nguyễn Duy quan niệm “nếu quá hiện đại thì dễ mất chân”. Quan niệm này đã chi phối đến quan điểm thẩm mĩ của ông. Ông vẫn theo sát cuộc chiến tranh, vẫn bám sát những sự kiện trọng đại của đất nước, có điều ông nhìn nó bằng cái nhìn của dân gian và phản ánh nó với lối nói quen thuộc giản dị, đời thường.

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây từng được coi là vùng đất thiêng vừa mang tính huyền thoại, vừa mang tính lịch sử lại giàu truyền thống văn hóa. Cũng giống như nhiều vùng miền khác, Thanh Hóa là một vùng quê có nhiều lễ hội dân gian và hình thức sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Đây cũng là miền quê nổi tiếng về âm nhạc dân gian với những làn điệu dân ca trong trẻo, mượt mà.

May mắn được sinh ra và hầu như sống nhiều trên mảnh đất thiêng, vùng đất có một nền văn hóa dân gian phong phú, đặc sắc, nên con người Nguyễn Duy đã thấm một cách tự nhiên nền văn hóa ấy, từ lối sống đến tư tưởng, tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Duy, người đọc thấy niềm tự hào của ông về mảnh đất quê hương đã sinh ra nhiều tài năng cho dân tộc. Người ta thấy cái không khí thiêng liêng của đền chùa, miếu mạo phảng phất trong khá nhiều bài thơ của Nguyễn Duy. Đặc biệt là hình ảnh vùng quê nghèo lặp đi lặp lại khá nhiều đến trở thành một ám ảnh miên man không bao giờ dứt trong đời thơ của nhà thơ.

Xét về hoàn cảnh gia đình, từ nhỏ Nguyễn Duy đã mồ côi mẹ. Ông ở với bà ngoại và lớn lên trong tiếng ầu ơ mang hơi ấm tình thương của bà. Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhất. Bà ngoại Nguyễn Duy không biết chữ nhưng thuộc rất nhiều ca dao, hò vè, truyện tiếu lâm… Những ngày tháng thơ ấu sống cùng bà ngoại, Nguyễn Duy được đắm mình trong những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích. Nguồn văn hóa dân gian ấy như dòng sữa ngọt ngào của mẹ đã nuôi ông lớn lên rồi ngấm vào tâm hồn ông, ngấm vào thơ ông một cách tự nhiên lúc nào không biết. Đây có thể là điều khiến sau này nhà thơ viết thành công thể loại lục bát và vận dụng ca dao một cách điêu luyện, tài tình. Hòa nhập với thơ ca đương đại, song cái cội rễ, cái linh hồn của thơ Nguyễn Duy vẫn là chất truyền thống, vẫn mang mạch thuần Việt.

Năm 1965, Nguyễn Duy từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Đường 9 Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là trưởng đại diện văn

phòng báo tại phía Nam. Có thể nói những năm vào quân ngũ trở thành người lính và sau đó lại làm báo đã tạo điều kiện cho Nguyễn Duy đi qua nhiều vùng đất của Tổ quốc. Rồi tiếp tục cuộc hành trình vượt ra ngoài biên giới, Nguyễn Duy đã đi tới các nước Xã hội chủ nghĩa, qua các nước Tây Âu và Mĩ. Ông được ví như con ngựa sung sức, luôn ở tư thế động, đôi chân không biết mỏi. Đến đâu ông cũng viết, cũng xúc cảm và suy ngẫm. Ông khám phá cuộc sống để nếm trải, lắng nghe, quan sát và suy nghiệm. Vì vậy, Nguyễn Duy đã chắt lọc, đã “đãi cát tìm vàng” từ núi cát của đời sống thực tế. Ông chắt gạn lấy những hạt bụi vàng và chuyển hóa thành thơ. Đó cũng là lí do vì sao các sáng tác của Nguyễn Duy có bản sắc riêng, không biến dạng, không pha tạp do hoàn cảnh sống.

Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường phổ thông Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam sau này được đưa vào trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút kí. Năm 1997, Nguyễn Duy tuyên bố “gác bút” để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ nên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Nguyễn Duy đã biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.

Nguyễn Duy được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007 và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Tác phẩm chính:

Thơ:Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đãi cát tìm vàng (1987), Mẹ và em (1987), Đường xa (1989), Sáu và Tám (1994), Về (1994), Bụi (1997)

Thể loại khác:Em Sóng (kịch thơ - 1983), Khoảng cách (tiểu thuyết - 1986), Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí - 1986)

Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm, vì thế cứ ngấm vào người đọc và có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ với nhiều bài thơ được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,… Ông được đánh giá cao trong thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển, chặt chẽ. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông.

Nguyễn Duy còn có bộ ba bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công chúng biết tới viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ đầu mang tên Đánh thức tiềm lực viết từ năm 1980 đến năm 1982 với những suy tư về tiềm lực và tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông tới thăm Liên Xô và đến năm 1988 mới hoàn thành mang tên “Nhìn từ xa… Tổ quốc”. Bài thơ viết về những trì trệ, bất cập mà ông mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ “như những nhát dao cứa vào lòng người đọc” (Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ ba viết sau đó chục năm, mang tên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với hai bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng hơn: Những suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ xuất thân từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi mà chiến tranh là đời sống và chiến đấu là lẽ sống của mỗi con người. Nguyễn Duy là con của người mẹ “Áo nhuộm bùn váy nhuộm nâu bốn mùa”, người mẹ của “đồng đất quê mình” nên chất chân chỉ mộc mạc đã ăn vào máu thịt nhà thơ. Khi cuộc chiến bảo vệ quê hương mới khép lại, ta vẫn

nghe những lời thơ nặng đằm tình cảm đồng đội, quê hương, lời thơ phát ra từ trái tim của người trẻ tuổi mở lòng mình để hiến dâng và yêu thương. “Gừng càng già càng cay” - thơ Nguyễn Duy cũng vậy. Thời gian càng làm những câu thơ thêm sâu sắc, ý nghĩa. Đọc thơ Nguyễn Duy trước và sau đổi mới, ta dễ nhận thấy một sự chuyển mình trong lối suy nghĩ khiến thơ ông giàu chiêm nghiệm và đậm màu sắc triết lí. Nếu trước đổi mới, dư âm của cuộc chiến tranh, với chiến thắng lẫy lừng của toàn dân tộc ảnh hưởng tới nhiều bài thơ Nguyễn Duy, thì sau đổi mới, dòng thơ Nguyễn Duy thể hiện một cái nhìn khá toàn diện về cuộc chiến tranh với cả nước mắt và nụ cười, cả động, cả tĩnh, đồng thời tác giả đi sâu khám phá về cuộc sống con người – cả một thế giới đời thường xô bồ, ồn ã đi vào thơ ông trong những phút tĩnh lặng nhất của lòng mình. Trong cuộc sống vội vã, con người có ít thói quen nhìn lại ngày hôm qua, thơ Nguyễn Duy cho ta những phút giây giật mình, để nhận ra đã bỏ qua chính mình, chạy theo những gì khó lí giải được bằng sự gần gũi, bình dị. Thơ Nguyễn Duy như lời đánh thức, đánh thức cõi tâm tình đang dần ngủ quên giữa bao bộn bề đời thường.

Thơ Nguyễn Duy mang nỗi nhớ của một người con xa quê, đồng thời lại chất chứa một dự cảm về tương lai. Nỗi nhớ quê như nhớ về một giá trị đẹp đẽ của văn hóa dân tộc sẽ dần nhạt nhòa với thời gian và nhịp sống. Có thể nói, thơ Nguyễn Duy trước đổi mới đã có chút nuối tiếc, muốn níu kéo những giá trị đẹp đẽ đó, đã lo lắng và đã buồn. Buồn vì chính mình và buồn hơn ở quanh mình. Đổi mới là cái bản lề, con người được tự do và tự chủ nhiều hơn nên cuộc sống vận động mạnh mẽ, có lúc lấn át những riêng tư và suy tư. Thơ Nguyễn Duy chứa cái nhìn dữ dội hơn: nếu trước đó chỉ là dự cảm thì giờ hiện thực phơi bày trước mắt, nếu trước đó là lời vỗ về an ủi mình và mọi người thì giờ là lời thẳng thắn, sắc cạnh.

Thơ Nguyễn Duy cả trước và sau đổi mới đều mang đến cho người đọc những xúc cảm sâu lắng, bởi một điều giản dị là tác giả viết bằng một tấm

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 03/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí