Những Định Hướng Lớn Về Phát Triển Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


có sở hữu nhà nước càng cao, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng lên, kéo theo đó là tỷ suất lợi nhuận của các NHTM giảm. Mối quan hệ này thể hiện rõ hơn tại chỉ số ROAA trong khi đối với chỉ số ROAE chưa thực sự rõ ràng. Điều này bắt nguồn từ nguyên nhân một phần do tác động của đòn bẩy tài chính lên hoạt động của ngân hàng đã làm suy giảm tác động của cấu trúc sỏ hữu.

Biến FOR đại diện cho tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại NHTM ở Việt Nam. Các hệ số của biến sở hữu nước ngoài FOR là dương trong mô hình đối với biến phản ánh hiệu quả hoạt động ROAE. Sự xuất hiện của sở hữu nước ngoài làm gia tăng mức sinh lời cho các ngân hàng và làm giảm tỷ lệ nợ xấu hàng năm theo kết quả thống kê trong mô hình.

Chỉ số CGI giải thích tốt các biến hiệu quả trong mô hình với mức ý nghĩa 1% và 5%. Hệ số của biến CGI lần lượt là 0.25 và 0.285 (có ý nghĩa lần lượt ở mức 5% và 1%) đối với các biến số ROAA và ROAE. Theo đó, chỉ số quản trị công ty càng cao càng gia tăng hiệu quả hoạt động cho ngân hàng. Đối với biến số phản ánh chất lượng tài sản NPL, hệ số của biến quản trị công ty là -0.065 với mức ý nghĩa 1%. Kết quả thống kê này cho thấy, chất lượng quản trị công ty có quan hệ hết sức mật thiết với tỷ lệ nợ xấu. Đây là một cơ sở quan trọng để đưa ra các khuyến nghị giải pháp trong chương 5 của luận án.

Mức độ tập trung sở hữu CO của các ngân hàng có ảnh hưởng ngược chiều đến ROAE (0.434, với mức ý nghĩa 1%) tương tự như biến sở hữu nhà nước STATE . Tuy nhiên, ảnh hưởng của biến CO lại có tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu NPL

Nhìn một cách tổng quát, với những ngân hàng có sự tham gia càng nhiều của sở hữu của Nhà nước thì có hiệu quả hoạt động kém hơn, đồng thời tỷ lệ nợ xấu ở mức cao hơn. Điều này là phù hợp với giả thuyết nghiên cứu cũng như những bằng chứng của các nghiên cứu trước đó. Trong khi đó, sở hữu nước ngoài lại có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả hoạt động tuy chưa được thể hiện một cách rõ nét. Chỉ số quản trị công ty (CGI) trong ngân hàng có mối quan hệ cùng chiều chặt chẽ đến hiệu quả hoạt động trong ngân hàng, thể hiện qua ý nghĩa thống kê tương đối phù hợp trong mô hình. Điều này cũng phù hợp với giả thiết nghiên cứu đề ra và kết quả của các nghiên cứu trước đây. Đối với trường hợp của biến số tập trung sở hữu CO, mức độ tập trung sở hữu cao làm hạn chế tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng.


4.3.2. Giải thích về kết quả hồi quy

Trong những nội dung đã được trình bày của chương 4, kiểm định Hausman đã được sử dụng để kiểm định dữ liệu thu được sẽ theo mô hình nào giữa mô hình tác động cố định FEM và mô hình tác động ngẫu nhiên. Các phân tích thống kê mô tả được sử dụng kết hợp với các kết quả hồi quy để đưa ra kết luận về bốn giả thuyết về tác động sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài, sở hữu tập trung và hoạt động quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Kết quả kiểm định của mô hình hổi quy cho thấy (i) sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, (ii) sở hữu nước ngoài có ánh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động nhưng tác động tích cực chưa được thấy rõ; (iii) chất lượng quản trị công ty có quan hệ cùng chiều chặt chẽ đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng; (iv) tác động của biến số tập trung sở hữu có xu hướng giống với sở hữu nhà nước nhưng lại có tác động làm giảm nợ xấu.

Bên cạnh những kết luận đã được kiểm chứng trong mô hình, kết quả hồi quy mô hình cho thấy một số giả thuyết còn chưa thực sự được chứng minh một cách rõ nét. Điều này có thể được lý giải do một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, trong quá trình thu thập số liệu cho mô hình, tác giả lấy từ báo cáo thường niên, báo cáo tài chính, báo cáo ĐHĐCĐ và các thông tin đại chúng được công bố. Tuy nhiên, số liệu này có thể chưa phản ánh chính xác hoặc chưa phản ánh toàn diện thực tế tình hình hoạt động của các ngân hàng.

Thứ hai, dữ liệu bảng trong mô hình là chưa cân bằng. Tức là, một số ngân hàng còn khuyết dữ liệu, ví dụ như Agribank, tác giả chỉ thu thập được dữ liệu đến năm 2014 thay vì đến năm 2015.

Thứ ba, hiệu quả hoạt động của ngân hàng không phải chỉ phụ thuộc vào cấu trúc sở hữu và tỷ lệ sở hữu, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chẳng hạn như yếu tố kinh tế vĩ mô, luật pháp, uy tín, thị phần kinh doanh,…

Thứ tư, về tác động của sở hữu nước ngoài đến hiệu quả hoạt động chưa thật rõ nét, được lý giải là do: (i) tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam còn tương đối hạn chế (hiện nay bị giới hạn ở mức 30%), vì vậy chưa cho phép họ có thể tham gia nhiều vào hoạt động của ngân hàng góp vốn, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến khâu tổ chức và hoạt động quản trị. Nghiên cứu Chhibber và Mujamdar năm 1999 [47] cho rằng tỷ lệ vốn góp là một yếu tố quan trọng ảnh


hưởng đến liệu rằng cổ đông nước ngoài có thể có những tác động nhất định;(ii) các tổ chức nước ngoài nắm cổ phần của các ngân hàng Việt Nam trong thời gian tương đối ngắn, phần lớn là từ năm 2006 trở lại đây. Những đặc điểm này là tương đồng với trường hợp của khối ngân hàng Colombia trong những năm 1990 (Barajas và cộng sự, 1999 [37]) và (iii) sự tác động hạn chế này còn có thể bắt nguồn từ hiệu ứng “người đi nhờ” trong hoạt động quản trị công ty khi mà cơ cấu sở hữu được đa dạng hóa. Theo đó các cổ đông là các ngân hàng nước ngoài còn thiếu tích cực tham gia vào điều hành hoạt động của ngân hàng được góp vốn do những sự khác biệt về địa lý, tập quán và văn hóa (Chhibber và Majumdar, 1999 [47]),....

Thứ năm, mức độ tập trung sở hữu có sự ảnh hưởng tương tự như tác động của sở hữu nhà nước điều này bắt nguồn từ nguyên nhân tương đối dễ hiều là mức độ tập trung cổ phần đối với cổ đông nhà nước tại nhiều ngân hàng thương mại là tương đối lớn. Đồng thời, mức độ tập trung sở hữu của các cổ đông tại Việt Nam càng cao càng làm giảm tỷ lệ nợ xấu, làm giảm tỷ lệ trích lập dự phòng và làm gia tăng tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản. Điều này có thể được giải thích do tại Việt Nam, những cổ đông lớn nhất của ngân hàng thường là những người tham gia HĐQT, khi đó, mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu và ban điều hành sẽ không có. HĐQT lúc này có quyền ảnh hưởng lớn đến các quyết định kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo theo đuổi mục tiêu an toàn và tăng trưởng lợi nhuận. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rokwaro (2013) [104] và Wen (2010) [119] khi phân tích tác động của cấu trúc sở hữu lên khả năng sinh lời của các ngân hàng tại Kenya và Trung Quốc.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 4


Chương 4 của luận án đã sử dụng mô hình định lượng dữ liệu bảng để kiểm định mối quan hệ giữa các biến đại diện cho cấu trúc sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài, tập trung sở hữu và biến đại diện cho chất lượng quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2015. Kết quả của các mô hình định lượng cho thấy sở hữu nhà nước có ảnh hưởng tiêu cực, sở hữu nước ngoài và sở hữu tập trung có ảnh hưởng tích cực ở một số biến số tuy nhiên chưa thực sự rõ ràng. Ngoài ra, chỉ số CGI giải thích tốt các biến hiệu quả trong mô hình với mức ý nghĩa 1% và 5%. Điều này là hoàn toàn phù hợp với những phân tích trong các nội dung trước của luận án.


CHƯƠNG 5

CÁC KHUYẾN NGHỊ VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


5.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

5.1.1. Những định hướng lớn về phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các NHTM Việt Nam sẽ chịu tác động đa chiều của biến động kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy, mục tiêu đặt ra đối với phát triển hệ thống các NHTM Việt Nam là phải củng cố, phát triển hoạt động của hệ thống ngân hàng với quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu dịch vụ ngân hàng đang ngày càng tăng của xã hội; huy động, đầu tư vốn một cách hiệu quả cho nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng khả năng ứng phó với những tác động bất lợi của kinh tế toàn cầu. Trong quá trình hướng tới các mục tiêu 5 năm giai đoạn 2016-2020, hệ thống NHTM Việt Nam cần đảm bảo được lộ trình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng theo Quyết định số 254/2012 của Chính phủ, bao gồm giai đoạn 1 từ 2011 đến 2015 và giai đoạn 2 từ 2016 đến 2020.

Bảng 5.1: Lộ trình tái cơ cấu lại hệ thống TCTD Việt Nam


Năm

Nhiệm vụ thực hiện


2011-2012

- Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các TCTD

- Tiến hành đánh giá và phân loại TCTD

- Xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại TCTD yếu kém và TCTD khác

- Tập trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các TCTD

- Hoàn thành căn bản phát hành cổ phiếu của các NHTMNN (trừ Agribank)

- Triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD, trong đó có một số ngân hàng sở hữu cổ phần lẫn nhau bao gồm ngân hàng Sài Gòn, ngân hàng Đệ Nhất và ngân hàng Tín Nghĩa.

- Tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu của các TCTD

- Cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 14


Năm

Nhiệm vụ thực hiện


2013

- Hoàn thành sửa đổi, bổ sung các quy định an toàn hoạt động ngân hàng

- 01 NHTMCP đã sáp nhập vào ngân hàng khác

- Tiếp tục triển khai lành mạnh hóa tài chính của các TCTD, tăng cường công tác thanh tra giám sát.

- Triển khai cơ cấu lại hoạt động quản trị

- Hoàn thành căn bản cơ cấu lại các CTTC và CTCTTC


2014

- Hoàn thành căn bản cơ cấu lại tài chính của TCTD

- Các TCTD đáp ứng đầy đủ mức vốn điều lệ thực và các chuẩn mực, giới hạn an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định pháp luật

- Tiếp tục triển khai cơ cấu lại hoạt động và quản trị


2015

- Hoàn thành tiếp tục các mục tiêu tái cơ cấu toàn bộ hệ thống hệ thống ngân hàng theo Quyết định 254.

- Hoàn thành cơ cấu lại hoạt động và quản trị của từng tổ chức tín dụng


2016 -

2020

- Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn theo cơ chế thị trường.

- Tập trung xử lý nợ xấu, trong đó chú trọng việc các NHTM tự xử lý

- Xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, đặc biệt chú trọng nghiên cứu, đề xuất các biện pháp quản lý, giám sát, cơ chế hỗ trợ cơ cấu lại các NHTM được NHNN mua lại.

- Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nêu tại Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD nhằm duy trì bền vững tỷ lệ nợ xấu dưới 3%; hạn chế nợ xấu mới phát sinh và nâng cao chất lượng tín dụng của các TCTD.

- Tái cơ cấu quản trị và quản lý rủi ro theo chuẩn mực quốc tế theo lộ trình phù hợp với năng lực tài chính và năng lực quản lý của hệ thống.

- Duy trì ổn định thanh khoản trên cơ sở thực hiện nghiêm ngặt các chỉ tiêu về an toàn thanh khoản trong cho vay trung, dài hạn, cho vay bất động sản, trạng thái ngoại hối.

- Vận dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để ổn định thị trường

liên ngân hàng làm cơ sở ổn định thanh khoản của hệ thống.

Nguồn: NHNN và tổng hợp của tác giả

Tinh thần của việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2016 – 2020 được dựa trên Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”, được Thủ tướng Chính phủ phe duyệt theo Quyết định 1058/QĐ- TTg vào tháng 7 năm 2017. Theo đó, nội dung chính của đề án là tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn


hệ thống; giảm số lượng tổ chức tín dụng yếu kém để có số lượng các tổ chức tín dụng phù hợp, có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản. Trong đó, nội dung của đề án tập trung vào một số định hướng chính như sau:

Đề án đưa ra định hướng và giải pháp cơ cấu lại ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (không bao gồm các ngân hàng thương mại mua bắt buộc). Theo đó, các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ đóng vai trò là lực lượng chủ lực, chủ đạo về quy mô, về thị phần, về khả năng điều tiết thị trường; đi đầu trong việc áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến, hiệu quả kinh doanh cao, an toàn trong hoạt động, chủ động hội nhập quốc tế; tích cực tham gia cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; thực hiện kinh doanh theo cơ chế thị trường và tuân thủ quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính và cho thuê tài chính để lành mạnh hóa, nâng cao nâng cao năng lực tài chính cả về quy mô và chất lượng, hiệu quả, bảo đảm an toàn hệ thống; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, công khai, minh bạch, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực về quản trị và an toàn hoạt động ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật và tiệm cận với thông lệ quốc tế.

Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Ngân hàng Hợp tác xã trong điều hòa vốn, kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ khoản vay của khách hàng; hướng dẫn, đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, công nghệ thông tin, hỗ trợ hoạt động ngân hàng đối với quỹ tín dụng nhân dân thành viên; tham gia xử lý đối với quỹ tín dụng nhân dân thành viên gặp khó khăn hoặc có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động.

Tiếp tục chấn chỉnh, củng cố và nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả của quỹ tín dụng nhân dân hiện có đi đôi với mở rộng vững chắc các quỹ tín dụng nhân dân mới ở khu vực nông thôn; phạm vi hoạt động chủ yếu của quỹ tín dụng nhân dân là huy động vốn và cho vay các thành viên trên địa bàn, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nhằm huy động các nguồn lực tại chỗ để góp phần phát triển kinh tế địa phương, xóa đói, giảm nghèo và đẩy lùi cho vay nặng lãi; bảo đảm quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động và nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên.


Về giải pháp xử lý nợ xấu, đề án nêu rõ, Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổ chức tín dụng, VAMC và các tổ chức, cá nhân có liên quan tiếp tục triển khai khẩn trương, quyết liệt, đồng bộ các giải pháp. Cụ thể, tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó, các tổ chức tín dụng đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; tiếp tục cơ cấu lại nợ, hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi; bổ sung, hoàn thiện hồ sơ pháp lý tài sản bảo đảm; thu nợ và xử lý tài sản bảo đảm; kiểm soát chặt chẽ và giảm chi phí hoạt động; hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh trong tương lai.

Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện giải pháp về cơ chế, chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; đồng thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường, giảm lượng hàng tồn kho, thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước; phát triển thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán.

Bên cạnh đó là giải pháp về khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm; phát triển thị trường mua bán nợ; giải pháp về mua nợ xấu theo giá trị thị trường và nâng cao năng lực tài chính của VAMC; giải pháp xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước trung ương, địa phương và nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, nợ xấu cho vay theo các chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh.

Tóm lại, trong giai đoạn quyết định 2016 – 2020 cần quán triệt nguyên tắc tái cơ cấu tận gốc, dứt điểm, kiên quyết, đồng bộ và có tầm nhìn xa để nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam, sẵn sàng bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế mới, trong đó, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa 3 bên: Chính phủ, NHNN, và bản thân các NHTM.

5.1.2. Định hướng về cấu trúc sở hữu của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bên cạnh những định hướng phát triển lớn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại trong nước, các định hướng về cấu trúc sở hữu trong hệ thống cũng được Chính phủ quan tâm. Từ bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới về vấn đề sở hữu trong hệ thống ngân hàng, Đề án 254/2012/QĐ-TTg


về Tái cơ cấu các TCTD cũng như Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” được phê chuẩn tháng 7 năm 2017 đã đề ra một số định hướng liên quan đến vấn đề sở hữu và quản lý Nhà nước như sau:

- Củng cố, phát triển hệ thống các NHTM với sự đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay;

- Nâng cao vai trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là bảo đảm các ngân hàng có cổ phần chi phối của Nhà nước thật sự là lực lượng chủ lực của hệ thống các NHTM, đồng thời có đủ năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế;

- Tiếp tục đẩy mạnh CPH các NHTMNN, trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được thực hiện CPH vào thời điểm thích hợp và bảo đảm Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối tại các NHTMNN sau CPH;

- NHNN Việt Nam trực tiếp mua lại vốn điều lệ hoặc cổ phần của NHTM yếu kém để chấn chỉnh, củng cố, lành mạnh hóa một bước NHTM, sau đó sáp nhập, hợp nhất với NHTM khác hoặc bán lại cho các nhà đầu tư đủ điều kiện;

- Xem xét, cho phép NHTM nước ngoài mua lại, sáp nhập NHTM yếu kém của Việt Nam và tăng giới hạn sở hữu cổ phần của NHTM nước ngoài tại các NHTMCP yếu kém được cơ cấu lại;

- Cơ cấu lại hệ thống quản trị các NHTM, tăng tính đại chúng của NHTMCP và tăng số lượng các nhà đầu tư, cổ đông trong các đợt tăng vốn điều lệ;

- Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước là cổ đông hoặc có vốn góp tại các NHTM phải có kế hoạch hợp lý thoái vốn đầu tư và chấm dứt kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng;

- Hạn chế sự chi phối, thao túng của cổ đông lớn đối với NHTMCP, kiên quyết xử lý đối với các cổ đông lớn, người có liên quan vi phạm quy định về giới hạn sở hữu cổ phần tại các NHTMCP sở hữu vốn chéo lẫn nhau.

5.2. KHUYẾN NGHỊ VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

5.2.1. Khuyến nghị về điều chỉnh các tỷ lệ sở hữu của các ngân hàng thương mại Việt Nam

5.2.1.1. Đầy mạnh CPH và phát huy vai trò sở hữu nhà nước tại các NHTMNN


a. Lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam

Định hướng của Nhà nước về vấn đề tái cấu trúc sở hữu trong hệ thống NHTM Việt Nam đã chỉ ra việc giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước là một xu hướng tất yếu. Hiện tại, nếu xét về sở hữu Nhà nước thì hệ thống NHTM Việt Nam được chia thành bốn nhóm:

(i) nhóm có sở hữu Nhà nước chiếm 100%, (ii) nhóm có sở hữu Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, (iii) nhóm có sở hữu Nhà nước chiếm cổ phần không chi phối và (iv) nhóm không có sở hữu Nhà nước.

Bảng 5.2: Phân loại các nhóm ngân hàng theo sở hữu của Nhà nước


Nhóm ngân hàng

Ngân hàng


Nhà nước sở hữu 100%

Agribank, GP Bank, Oceanbank, Ngân hàng xây

dựng

Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối

VCB, BIDV,

Vietinbank

Nhà nước nắm giữ cổ phần không chi phối và nhóm không có sở hữu Nhà nước

Các NHTM còn lại

Nguồn: Tổng hợp cuả tác giả

Do đó, thời gian tới cần nhanh chóng giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước trong nhóm ngân hàng có sở hữu Nhà nước đang chiếm 100% vốn điều lệ và nhóm ngân hàng có sở hữu Nhà nước đang chiếm cổ phần chi phối theo đúng tinh thần giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNN nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Đồng thời, điều này cũng phù hợp với những kết quả của mô hình định lượng trong luận án và các nghiên cứu trước đó. Lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại các ngân hàng do Nhà nước nắm giữ 100% cổ phần và tại ngân hàng do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối trong giai đoạn 2016-2025 được khuyến nghị như sau:

Bảng 5.3: Lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước


Ngân hàng

2016

2017

2018

2019

2020

2025

Agribank

100%

100%

90%

85%

80%

65%

Vietcombank

77.11%

77.11%

70%

65%

65%

65%

BIDV

95.76%

95.76%

90%

80%

75%

65%

Vietinbank

64.46%

64.46%

64.46%

64.46%

64.46%

64.46%

Nguồn: Đề xuất cuả tác giả

Hiện tại, ngành ngân hàng Việt Nam được dự báo là tiếp tục gặp nhiều khó khăn khi vấn đề nợ xấu chưa được giải quyết một cách triệt để vì thiếu nguồn tiền thực để giải quyết nợ xấu (Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014). Do đó, trong giai đoạn 2016-2017, thay vì tập trung giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước của các ngân hàng này một cách nhanh


chóng, cần có các giải pháp nâng cao vai trò của sở hữu Nhà nước trong các ngân hàng như thay đổi cách thức quản trị, nâng cao tính minh bạch, cải thiện năng lực và hiệu lực của hoạt động thanh tra, giám sát. Từ năm 2018 trở đi, chúng ta bắt đầu lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước cụ thể cho từng ngân hàng có cổ phần nhà nước chi phối.

Đối với Agribank có thể vẫn duy trì tỷ lệ sở hữu Nhà nước cho tới hết năm 2017 theo định hướng đặt ra từ trước của Chính phủ. Tuy nhiên, trong năm 2017, Agribank cần xây dựng đề án CPH để trình Chính phủ phê duyệt trong đó hướng tới việc giảm dần tỷ lệ sở hữu về 65% theo mục tiêu của Chính phủ. Có thể giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại ngân hàng này xuống mức 80% vào năm 2020 và 65% vào năm 2025 bằng cách giữ nguyên phần vốn của Nhà nước trong các ngân hàng và phát hành thêm cổ phần ra bên ngoài. Lý do là vì căn cứ điều kiện hiện nay của Việt Nam, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là về vốn, công nghệ, do đó, ngân hàng này vẫn cần tiếp tục nhiệm vụ duy trì thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chính phủ từ nay tới năm 2025.

Kể từ năm 2017 đến năm 2025, các ngân hàng Vietcombank, BIDV và Vietinbank có thể giảm dần tỷ lệ sở hữu Nhà nước xuống các mức theo phê duyệt về kế hoạch CPH của Chính phủ. Theo Nghị quyết 15/NQ-CP ngày 6 tháng 3 năm 2014 , Tập đoàn Bảo Việt, các ngân hàng thương mại cổ phần duy trì tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ ở mức không thấp hơn 65% vốn điều lệ, trừ Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Vietinbank. Điều này là phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 khẳng định kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, đặc biệt trong những lĩnh vực then chốt như tài chính – ngân hàng. Ở khía cạnh thực hiện các mục tiêu của Nhà nước, việc sở hữu quá bán số cổ phần vẫn có thể giúp cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước được thực hiện một cách hợp lý. Ở khía cạnh thị trường, việc giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước sẽ góp phần nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng. Điều này phù hợp với những cam kết mở cửa của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp, NHTMCP Nhà nước nói riêng. Khi nền kinh tế có độ mở lớn hơn, gia nhập các tổ chức, cộng đồng quốc tế…thì việc giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước ở mức hợp lý vừa tạo động lực phát triển cho nền kinh tế, vừa dần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước thông qua công cụ gián tiếp thay vì trực tiếp sở hữu vốn cổ phần chi phối trong hệ thống.


Đối với nhóm NHTM mà Nhà nước nắm giữ cổ phần không chi phối, từ năm 2017, Nhà nước có thể lập kế hoạch thay đổi tỷ lệ sở hữu bằng các phương án khác nhau như (i) yêu cầu các ngân hàng tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phần ra thị trường hoặc (ii) bán vốn do Nhà nước cho đối tượng khác. Tùy vào từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể mà Nhà nước quyết định sử dụng phương thức giảm tỷ lệ sở hữu tại các ngân hàng mà Nhà nước nắm giữ cổ phần không chi phối.

b. Biện pháp hỗ trợ quá trình CPH trong hệ thống NHTM Việt Nam

Một trong những giải pháp có thể được xem xét thực hiện để hỗ trợ quá trình CPH là thành lập Công ty mua bán cổ phần chuyên quản lý tỷ lệ cổ phần nhà nước tại các NHTM. Ngay trong những tháng đầu năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã nêu quyết tâm thực hiện CPH DNNN trong hai năm 2014-2015 và kiên quyết thực hiện lộ trình thoái vốn toàn bộ các khoản đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính của các DNNN bằng việc ban hành Nghị quyết số 15/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh CPH, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Nghị quyết ra đời đã quy trách nhiệm cho người đứng đầu các bộ hoặc các tỉnh về tiến độ CPH và thoái vốn đầu tư ngoài ngành, và đưa ra những định hướng cụ thể để thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, việc yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty thoái vốn bằng cách bán cho Tổng Công ty Đầu tư vốn Nhà nước (SCIC) sẽ khó có thể là một giải pháp hợp lý khi mô hình tổ chức của SCIC vẫn còn phụ thuộc lớn vào Nhà nước và đặc biệt SCIC không có đủ chuyên môn về lĩnh vực ngân hàng để nắm giữ cổ phần của các NHTM. Do đó, Ngân hàng Nhà nước nên là chủ thể đảm nhận vai trò sở hữu lượng vốn mà các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế Nhà nước thoái ra. Tuy nhiên, nếu NHNN đứng ra mua lại số vốn đó thì nguồn kinh phí để mua lại sẽ rất khó khăn khi ngay cả hiện nay bản thân NHNN vẫn chưa tìm được đủ nguồn tiền để xử lý riêng vấn đề nợ xấu trong hệ thống NHTM. Từ những nguyên nhân trên, khuyến nghị về việc thành lập Công ty mua bán cổ phần do Ngân hàng Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ là cần thiết.

Hơn nữa, sự cần thiết của việc thành lập công ty này còn được thể hiện ở: (i) tránh các cú sốc từ phía cung chứng khoán ra thị trường làm giảm giá trị cổ phiếu của các NHTM, ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ đông khác của ngân hàng; (ii) tổng số cổ phần mà các DNNN nắm giữ tại các NHTM theo ước tính của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng hiện nay là khá lớn nên nếu để tự các doanh nghiệp này thoái vốn sẽ rất khó khả thi và có thể gây mất an toàn hoạt động; (iii) một số ngân hàng chưa niêm yết

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí