cổ phiếu trên sàn chứng khoán khiến tính thanh khoản của các cổ phiếu này không cao và khó bán hoặc bán với mức giá không tốt; (iv) Trên thế giới, Nhật Bản đã áp dụng thành công mô hình công ty chuyên mua cổ phần ngân hàng: “Bank‟s shareholding purchase” nhằm giải quyết vấn đề biến động lớn của giá chứng khoán trong quá trình giảm sở hữu chéo.
c. Phát huy vai trò của sở hữu Nhà nước thông qua người đại diện
Người đại diện cho phần vốn Nhà nước trong các NHTMNN đóng vai trò quan trọng bởi giá trị nắm giữ cổ phần lớn, từ đó ảnh hưởng lớn tới các quyết định của ngân hàng. Người đại diện có quyền lực lớn trong HĐQT của ngân hàng, dẫn đến họ có thể có những quyết định mang tính chủ quan – không thực sự mang lại lợi ích của các cổ đông còn lại. Hơn nữa, rủi ro đạo đức có thể xảy ra nếu người đại diện có động cơ sử dụng quyền đại diện của họ tại các NHTMNN để có những quyết định mang lại lợi ích cho bản thân họ. Vì vậy, giải pháp tạo cơ chế vừa khuyến khích động lực làm việc vì lợi ích chung của Nhà nước, vừa hạn chế rủi ro sử dụng “quá nhiều” quyền lực của người đại diện trong việc ảnh hưởng tới các quyết định của ngân hàng là cần thiết.
Thứ nhất, khuyến khích người đại diện phần vốn của Nhà nước có hành vi hướng tới mục tiêu chung là tối đa hóa giá trị cho các cổ đông
Để người đại diện có thể hành động nhằm tạo ra giá trị cho cổ phần của ngân hàng mà họ đang đại diện cho phần vốn Nhà nước nắm giữ, lợi ích của người đại diện cần gắn chặt với hoạt động của ngân hàng. Do đó, cần có những chính sách sao cho lợi ích trong cả ngắn hạn và dài hạn của người đại diện gắn với hoạt động của ngân hàng mà họ đang đóng vai trò đại diện. Chính sách giải quyết vấn đề ngắn hạn có thể là cơ chế lương thưởng cho người đại diện khi họ đáp ứng được mục tiêu đề ra ban đầu của HĐQT hàng năm. Về dài hạn, người đại diện cần yêu cầu sở hữu khoảng 0.5%-1% giá trị cổ phần của ngân hàng khi họ kết thúc nhiệm kỳ đại diện. Việc làm này sẽ tạo cho người đại diện có những quyết định mang lại lợi ích chung cho các cổ đông còn lại bởi họ đã bị yêu cầu sở hữu cổ phần của ngân hàng sau khi kết thúc nhiệm kỳ. Sau khi kết thúc nhiệm kỳ đại diện, người đại diện vẫn có thể trở thành một thành viên trong HĐQT hoặc trong ban kiểm soát của ngân hàng. Việc quy định người đại diện phải nắm giữ một lượng cổ phần nhất định sau khi kết thúc nhiệm kỳ có thể gặp phải khó khăn khi họ có thể không đủ năng lực tài chính để mua số cổ phần này. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu các ngân hàng trả lương, thưởng cho người đại
diện thông qua cổ phiếu hoặc quyền mua cổ phiếu ưu đãi. Trong dài hạn, Ngân hàng Nhà nước cần đề xuất với Chính phủ việc xây dựng thị trường đối với các giao dịch quyền chọn mua/bán cổ phiếu.
Thứ hai, hạn chế rủi ro hành động theo lợi ích của người đại diện cần được quan tâm
Nguyên nhân gây ra rủi ro đạo đức đối với người đại diện là một nguyên nhân mang tính tất yếu. Khi người đại diện nắm giữ một lượng giá trị cổ phần lớn trong ngân hàng, một cách tự nhiên, cơ chế này đã tạo ra cơ hội để họ có thể có những hành vi mang tính chủ quan. Do đó, muốn giảm đi những hành vi không mang tính khách quan này của người đại diện, cách thức trực tiếp là phát triển, đào tạo chính họ nhằm giúp cho người đại diện có thể hành động vì lợi ích của các cổ đông còn lại. Cách tác động gián tiếp có thể là hạn chế quyền biểu quyết của người đại diện trong HĐQT của ngân hàng.
Đối với cách trực tiếp, điều kiện đặt ra đối với người được cử làm đại diện phần vốn Nhà nước tại các NHTM phải được chọn lựa cẩn thận hay nói cách khác cần phải thắt chặt hơn điều kiện để một người có thể trở thành người đại diện cho NHTM. Hiện nay, theo Nghị định 59/2009/NĐ-CP và Quyết định 931/QĐ-NHNN, người đại diện trong HĐQT của ngân hàng cần tuân thủ các điều kiện như tại Điều 50, Điều 34 Luật các TCTD 2010 và cần có kinh nghiệm 3 năm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, riêng đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên ưu tiên cán bộ đã từng làm công tác quản lý từ cấp Vụ trưởng trở lên trong vòng 1 năm, đối với người đại diện dự kiến kiêm nhiệm chức danh Tổng Giám đốc, thành viên HĐQT, ưu tiên người đã trải qua công tác quản lý Nhà nước ít nhất một năm tại NHNN từ cấp Vụ phó trở lên. Các điều kiện này đối với người đại diện có 2 điểm cần nghiên cứu thêm: (i) số năm kinh nghiệm yêu cầu chưa lớn và để xác định thế nào là làm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng cũng không thực sự đầy đủ. Ví dụ như một cán bộ công tác trong lĩnh vực tín dụng cũng ngang với cán bộ công tác trong lĩnh vực quản trị rủi ro hay lĩnh vực giao dịch viên. Như vậy, ở điều kiện thâm niên công tác cần kéo dài hơn và người đại diện cũng cần trải qua nhiều vị trí hơn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, từ cấp nhân viên, quản lý vi mô đến quản lý vĩ mô; (ii) Quyết định 931/QĐ-NHNN ưu tiên trao quyền đại diện phần vốn của NHNN đối với các cán bộ đã từng giữ vị trí quản lý cấp Vụ trong NHNN nhưng không phải Vụ nào cũng có thể đảm nhận vị trí người đại diện một cách
phù hợp. Để đại diện cho phần vốn của Nhà nước tại các NHTM, cần những cán bộ hiểu biết về CSTT, tín dụng, tỷ giá của NHNN, do đó, đối tượng đã từng có kinh nghiệm làm quản lý tại NHNN cần có các điều kiện chặt chẽ hơn. Hơn nữa, số năm công tác tại một vụ trong NHNN theo như Quyết định 931/QĐ-NHNN là chưa lớn, một năm chưa thể đảm bảo cho một người có thể tích lũy được kinh nghiệm quản lý tại cơ quan quản lý tiền tệ vĩ mô như NHNN.
Qua phân tích hai điểm chưa chặt hiện nay trong việc tuyển chọn người đại diện, nghiên cứu sinh đề xuất các điều kiện để một người có thể đảm nhiệm tại vị trí đại diện cho vốn sở hữu Nhà nước tại NHTM là: (i) các điều kiện tối thiểu như trình độ học vấn, sức khỏe, trình độ am hiểu pháp luật; (ii) đã từng giữ vị trí quản lý tại ít nhất 2 NHTMCP (không phải do Nhà nước sở hữu) khác nhau, ưu tiên người có kinh nghiệm giữ cương vị quản lý tại một NHNNg, thời gian làm công tác quản lý tối thiểu phải là 5 năm; (iii) đã từng giữ vị trí quản lý từ cấp Vụ trở lên tại NHNN tối thiểu 3 năm tại các Vụ như: Cơ quan thanh tra giám sát, Vụ CSTT, Vụ Quản lý ngoại hối, Vụ Tín dụng, Vụ Dự báo Thống kê; hoặc là, đã từng công tác tại tối thiểu 2 vụ trong số các vụ kể trên trong thời gian ít nhất 6 năm. Ứng viên cần đạt được cả hai điều kiện (ii) và (iii) bởi người đại diện cho vốn chủ sở hữu của Nhà nước tại NHTMCP cần vừa có kinh nghiệm quản lý thực tiễn vừa có kinh nghiệm làm chính sách tại NHNN. Khi điều kiện đối với người đại diện được thắt chặt, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác sẽ giúp cho người đại diện giảm được rủi ro đạo đức hơn là khi điều kiện tuyển dụng được nới lỏng.
Đối với cách thức tác động gián tiếp làm hạn chế rủi ro đạo đức của người đại diện là, trong quá trình làm vai trò người đại diện cho phần vốn của Nhà nước tại NHTM, phần vốn mà người đại diện nắm giữ có thể lớn nhưng quyền biểu quyết của người đại diện có thể bị hạn chế ở một số lĩnh vực (OECD, 2004). Cụ thể, người đại diện chỉ được quyền biểu quyết tối đa là 10% trong các quyết định của các buổi họp hội đồng cổ đông đối với vấn đề bổ nhiệm nhân sự như lãnh đạo các chi nhánh của ngân hàng mặc dù nắm giữ đại diện số cổ phần Nhà nước có thể là 40%. Hạn chế quyền biểu quyết sẽ hạn chế các quyết định chủ quan – mang tính lợi ích nhóm cổ đông - từ một phía người đại diện. Bên cạnh giải pháp này, giải pháp tăng cường năng lực của ban kiểm soát hoặc sự giám sát từ phía cơ quan thanh tra, giám sát NHNN có thể là một sự lựa chọn tốt. Ban kiểm soát cần tuyệt đối độc lập với HĐQT và ban điều hành của ngân
hàng. Cụ thể, không những những người có liên quan đối với ban Giám đốc và HĐQT chỉ dừng lại ở các đối tượng như vợ/chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con theo quy định trong Nghị định 59/2009/NĐ-CP, đối tượng có liên quan này cần mở rộng sang cả các đối tượng như cha mẹ vợ/chồng, anh, chị em họ trong gia đình. Ban kiểm soát cũng cần bị yêu cầu lập báo cáo về tình hình quản lý điều hành ngân hàng của Ban Giám đốc, HĐQT định kỳ bán niên tới Cơ quan thanh tra giám sát NHNN nhằm tăng cường phạm vi giám sát của cơ quan thanh tra.
5.2.1.2. Tăng tỷ lệ sở hữu trong ngân hàng cho các nhà đầu tư nước ngoài
Theo những phân tích của nhiều nghiên cứu trước đây và trong cả luận án này, việc giới hạn sở hữu với các nhà đầu tư nước ngoài trong hệ thống NHTM Việt Nam phần nào hạn chế sự phát triển của các ngân hàng nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Lộ trình thoái vốn của các NHTM có sở hữu Nhà nước theo đó cũng bị hạn chế trong khi các quỹ đầu tư nước ngoài luôn có nhu cầu đầu tư vào ngành ngân hàng Việt Nam. Do vậy, việc nới giới hạn sở hữu cổ phần (room) cũng như nới lỏng các quy định về nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phần, trở thành nhà đầu tư và nhà đầu tư chiến lược tại các NHTM Việt Nam có sở hữu Nhà nước chi phối không chỉ nhằm hỗ trợ cho quá trình thoái vốn Nhà nước trong ngắn hạn mà còn giúp tăng nội lực của các ngân hàng trong dài hạn thông qua chuyển giao công nghệ tiên tiến, chia sẻ kinh nghiệm quản trị và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, việc mở rộng sở hữu nước ngoài trong các NHTM Việt Nam có tác động tích cực tới tính thanh khoản của TTCK; tạo động lực thúc đẩy tiến trình CPH của hệ thống ngân hàng nói riêng và các DNNN nói chung. Tuy nhiên, tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng cũng có những hạn chế nhất định như tăng sự của hệ thống tài chính trong nước vào nguồn lực bên ngoài, khó kiểm soát thị trường tài chính, tạo điều kiện cho mục đích thâu tóm ngân hàng nội địa trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài nắm được và lợi dụng những kẽ hở trong các quy định pháp luật Việt Nam. Từ đó đặt ra những câu hỏi như nới lỏng giới hạn sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài bao nhiêu là hợp lý, nới cho những đối tượng nào và lộ trình thực hiện ra sao? Xem xét vấn đề này, nhiều quan điểm của các chuyên gia đã được đưa ra, theo đó nên chăng nới lỏng giới hạn sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài lên 40% hay 49% trong bối cảnh hiện nay (hiện nay 49% là giới hạn đối với các doanh nghiệp phi ngân hàng).
Xem xét những điểm tích cực và tiêu cực của việc nới lỏng giới hạn sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài trong hai trường hợp 40% và 49%, có thể nhận thấy những điểm chung ở cả hai khía cạnh; bao gồm: hệ thống ngân hàng Việt Nam được bổ sung nguồn vốn, hỗ trợ quá trình tái cấu trúc; ngân hàng nội được chuyển giao công nghệ tiên tiến và nâng cao năng lực quản trị; đồng thời giúp tăng cường minh bạch thông tin và phù hợp với cam kết mở cửa thị trường khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, nhìn về khía cạnh tiêu cực, nhiều chuyên gia cho rằng nếu ngay lập tức nới rộng tới 49%, trong điều kiện công tác quản lý nguồn vốn ra vào còn gặp nhiều khó khăn thì nhiều khả năng thị trường Việt Nam sẽ bị tổn thương do cú sốc nguồn vốn ngoại đổ vào. Thực tế cũng cho thấy, trong năm 2007, khi Việt Nam bắt đầu gia nhập WTO, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký tăng nhanh, lên tới trên 60 tỷ USD và giải ngân cũng khá lớn. Việt Nam đã phải đối mặt với áp lực lạm phát cùng với tín dụng trong nước tăng nhanh tới 53% trong năm 2007 và lên đến 23% trong năm 2008. Thêm vào đó, trình độ điều hành và quản trị của các ngân hàng Việt Nam còn khoảng cách lớn với các nước trên thế giới, do vậy, với thế mạnh này, cùng với việc được trao quyền chủ động nhiều hơn, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội chi phối ngân hàng, từ đó gia tăng khả năng chi phối nhiều lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế.
Bảng 5.4: So sánh các mặt tích cực và tiêu cực của các kịch bản nới room
Nới room lên 49% | |||
Tích cực | Tiêu cực | Tích cực | Tiêu cực |
- Bổ sung nguồn lực nước ngoài để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng - Ngân hàng Việt Nam có thêm vốn hoạt động, nâng cao kỹ năng quản trị, được chuyển giao công nghệ - Nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện nâng cao sự chủ động trong điều hành và quản trị ngân hàng - Tăng cường minh bạch thông tin - Thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO | - Nguồn lực được bổ sung ở mức giới hạn sở hữu này có thực sự phát huy được hiệu quả vẫn là câu hỏi đặt ra. - Nhà đầu tư nước ngoài kém quan tâm khi tỷ lệ sở hữu không được như mong đợi | - Bổ sung nguồn lực lớn hơn cho tái cơ cấu hệ thống ngân hàng - Ngân hàng Việt Nam có thêm nguồn vốn hoạt động lớn hơn, nâng cao kỹ năng quản trị, được chuyển giao công nghệ - Nhà đầu tư nước ngoài nâng cao được sự chủ động tham gia vào điều hành và quản trị ngân hàng - Tăng cường minh bạch thông tin - Thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO | - Cú sốc dòng vốn ngoài có khả năng gây tổn hại thị trường nội địa - Năng lực điều hành, quản trị hoạt động ngân hàng của Việt Nam còn cách biệt khá lớn với các nhà đầu tư nước ngoài - Ngân hàng Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhà đầu tư ngoại. Dẫn đến rủi ro bị các nhà đầu tư nước ngoài chi phối hệ thống tài chính. |
Có thể bạn quan tâm!
- Đối Với Sở Hữu Nhà Nước Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Kỳ Vọng Kết Quả Mô Hình Nghiên Cứu Và Những Nghiên Cứu Trước Đó
- Những Định Hướng Lớn Về Phát Triển Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Khuyến Nghị Về Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Công Ty Cho Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- La Porta, Lopez-De-Silanes Và Andrei Sheleifer, (2000). Government Ownership Of Bank, Journal Of Finance, Vol. 52
- Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 18
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Ngược lại với những điểm trên, việc nới lỏng từ từ, bắt đầu với mốc 40% được cho là sẽ giúp Việt Nam có thời gian hoàn thiện hoạt động của TTCK, tăng cường năng lực thanh tra giám sát, cải thiện mức độ minh bạch hóa thông tin; các ngân hàng Việt Nam có thời gian củng cố năng lực điều hành và cải thiện hoạt động. Những điều này phần nào sẽ giảm bớt nguy cơ bị các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện các hành vi thao túng.
Mặc dù có ý kiến cho rằng phải mở rộng thật nhanh để tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng theo quan điểm của tác giả, cần thực hiện nới lỏng theo lộ trình, điều chỉnh dần dần mức độ sở hữu dựa trên sức khỏe của ngân hàng nội nhằm tránh những rủi ro của việc nới lỏng sở hữu quá nhanh. Giới hạn sở hữu nước ngoài đang ở mức 30% và khoảng 3 năm nữa (2020) sẽ tăng lên đến 100% theo cam kết của WTO. Vì vậy, ngay tại thời điểm hiện tại có thể tăng room nước ngoài lên 40%, sau đó chia ra với khoảng cách từ 2 - 3 năm một lần tăng để tiến tới phù hợp với cam kết WTO năm 2020. Ngoài ra, để hạn chế rủi ro và đạt được mục tiêu, bản thân các ngân hàng có nhu cầu tăng vốn thông qua sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài cần phải chủ động tìm đối tác chiến lược của mình. Song song với quá trình đó, NHNN cũng cần phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước để giảm các thủ tục hành chính không cần thiết, tạo các điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài gia tăng sở hữu một cách hợp lý đối với các tổ chức tín dụng trong nước.
5.2.2. Khuyến nghị về kiểm soát và minh bạch hóa sở hữu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
5.2.2.1. Rà soát các tỷ lệ sở hữu cổ phần tại các ngân hàng thương mại
Biện pháp đầu tiên này nhằm kiểm soát và minh bạch hóa vấn đề sở hữu trong hệ thống ngân hàng. NHNN cần thành lập một bộ phận chuyên thanh tra, giám sát hiện tượng sở hữu chồng chéo nằm trong cơ quan thanh tra giám sát NHNN nhằm nắm bắt được tình hình sở hữu hiện tại. Trước hết, cần rà soát, đối chiếu các tỷ lệ sở hữu hiện hành với các quy định của Luật các TCTD 2010. Cụ thể:
Thứ nhất, rà soát về vấn đề sở hữu lẫn nhau của các NHTM
Khoản 5 Điều 129 Luật các TCTD 2010 quy định: “TCTD không được góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông thành viên góp vốn của chính TCTD đó”. Như vậy, hàm ý của văn bản này nhằm: (i) không cho phép các
NHTM sở hữu trực tiếp lẫn nhau, (ii) không cho phép các NHTM góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp mà doanh nghiệp đã là cổ đông của NHTM. Trong cả hai trường hợp này, vì NHNN chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể theo khoản 5 điều 161 Luật các TCTD 2010 đối với các mối quan hệ sở hữu trước thời điểm ban hành nên khi tiến hành rà soát khả năng xuất hiện các mối quan hệ vi phạm quy định này sẽ cao. Trong trường hợp này, NHNN cần hướng dẫn một trong hai NHTM thoái vốn khỏi NHTM còn lại bằng các biện pháp như chuyển nhượng cho bên thứ ba hoặc NHTM bị thoái vốn mua lại cổ phần của chính NHTM đó từ vốn điều lệ và quỹ dự trữ. Yêu cầu của NHNN cần dựa trên khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn của NHTM.
Thứ hai, rà soát các tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông cá nhân và cổ đông tổ chức tại các NHTM
Theo Điều 55 Luật các TCTD 2010 thì một cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của TCTD, một cổ đông tổ chức không sở hữu quá 15% và các cổ đông có liên quan không được sở hữu quá 20%. Đối với các cổ đông là thành viên hoặc có người đại diện trong hội đồng quản trị, hoặc tổng giám đốc, ban kiểm soát, Điều 56 Luật các TCTD 2010 quy định họ phải nắm giữ cổ phần của TCTD trong thời gian đảm nhiệm chức vụ. Trong tình huống này, nhằm giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM, NHNN cần yêu cầu các cổ đông giảm bớt tỷ lệ sở hữu của họ xuống mức cho phép thông qua: hoặc là (i) nhượng bán lại cổ phần cho các thành viên khác trong hội đồng quản trị đang có sở hữu cổ phần ít hơn mức quy định; hoặc (ii) nhượng bán cho các cổ đông khác của NHTM; hoặc (iii) chuyển nhượng cho cổ đông nước ngoài nếu NHTM đó đang có cổ đông tổ chức nước ngoài nắm cổ phần.
Thứ ba, rà soát các cổ đông cá nhân, cổ đông là tổ chức đang có sở hữu tại các NHTM hiện đang có dư nợ tại chính các NHTM đó và các NHTM khác
Một trong những hậu quả của sở hữu chéo là việc người cho vay và người đi vay là một. Tức là các NHTM huy động vốn rồi cho chính các cổ đông của họ vay tiền để thực hiện các dự án phục vụ lợi ích cá nhân. Do đó, việc kiểm tra, rà soát vấn đề các cổ đông vừa có sở hữu tại các NHTM vừa có dư nợ tại các NHTM là điều cần thiết. Cụ thể, trong ngắn hạn, cơ quan thanh tra cần thực hiện rà soát tính tuân thủ đối với những điều khoản hạn chế cấp tín dụng của các TCTD trong Điều 126, 127 Luật các TCTD 2010. Trong dài hạn, cần có sự tách bạch giữa Hội đồng quản trị và bộ phận
điều hành của NHTM nhằm hạn chế trường hợp vừa huy động tiền gửi vừa cho vay chính các cổ đông của các NHTM.
Thứ tư, rà soát mối quan hệ sở hữu giữa các công ty con, công ty liên kết của các NHTM (NHTM đóng vai trò là công ty kiểm soát đối với hai công ty trên)
Việc chính các công ty con và công ty liên kết của cùng một NHTM kiểm soát sở hữu lẫn nhau tạo điều kiện cho vốn chạy lòng vòng giữa các tổ chức, qua đó, khó kiểm soát và lượng vốn có thể chạy ra bên ngoài vào các dự án phục vụ lợi ích cá nhân. Căn cứ vào điều 135 Luật các TCTD 2010, cơ quan thanh tra cần xác định rõ có sự vi phạm trong việc thực hiện quy định này hay không.
5.2.2.2. Yêu cầu thoái vốn đối với các tỷ lệ vượt trần
Sau khi đã xác định được các tỷ lệ sở hữu thực tế và mối quan hệ sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, giải pháp yêu cầu các nhóm quan hệ sở hữu vượt trần thoái vốn là một giải pháp trực tiếp giải quyết sở hữu chéo.
Với các các khoản mục sở hữu trực tiếp hay gián tiếp bị phát hiện chưa đúng với các quy định mới nhất thì các nhóm cổ đông hiện hữu (gồm cả Nhà nước và tư nhân) đang nắm giữ quyền sở hữu đó buộc phải có kế hoạch thoái vốn do NHNN giám sát quá trình thực thi. Như đã nêu trên, trong quá trình xử lý sở hữu chéo phải cân nhắc những nguy cơ tiềm ẩn như trị giá cổ phần của ngân hàng mà doanh nghiệp đầu tư phải thoái vốn sẽ chịu sức ép giảm giá khi tăng cung, dẫn đến quy mô vốn của ngân hàng bị thu hẹp.
Do vậy, cần xây dựng lộ trình thoái vốn một cách hợp lý, sao cho vẫn hài hòa được lợi ích của doanh nghiệp, ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống nói chung. Muốn làm được như vậy, NHNN cần có những hỗ trợ thích đáng như tư vấn về kế hoạch thoái vốn cho các nhóm cổ đông. Đồng thời, NHNN cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá những kế hoạch thoái vốn này nhằm tránh trình trạng danh nghĩa bên ngoài là thoái vốn giảm sở hữu chéo nhưng bản chất bên trong chỉ là thay đổi quyền sở hữu, thay đổi người đứng tên sở hữu cổ phần... giữa các thành viên trong nhóm cổ đông phải thoái vốn hoặc giữa bản thân họ với các đối tượng có liên quan bị pháp luật. Việc chuyển đổi này về bản chất không làm giảm tỷ lệ sở hữu chéo. Thêm vào đó, cần có những biện pháp xử phạt nghiêm với những trường hợp cố tình trì hoãn kế hoạch thoái vốn hoặc thoái vốn chỉ trên danh nghĩa như vừa phân tích.
Các nhóm quan hệ sở hữu cần được yêu cầu thoái (một phần hoặc toàn phần) vốn đó là: (i) các tập đoàn kinh tế nhà nước thoái vốn khỏi các NHTM, (ii) các NHTM đang sở hữu lẫn nhau thoái vốn khỏi NHTM còn lại, (iii) các cổ đông nhỏ lẻ thoái vốn khỏi các NHTM. Các đối tượng hiện tại đang có tỷ lệ sở hữu lớn như nhóm (i) và (ii) cần tiến hành đăng ký giao dịch bán cổ phần trên thị trường theo kế hoạch cụ thể. Đồng thời Chính phủ và NHNN cần có những biện pháp nhằm hỗ trợ quá trình thoái vốn – được trình bày trong các phần tiếp theo.
Quá trình thoái vốn với sự tham gia của các chủ thể liên quan được mô tả theo các bước như sau:
- Bước 1: yêu cầu các nhóm quan hệ sở hữu nêu trên thoái vốn, đặc biệt tập trung vào nhóm tập đoàn kinh tế nhà nước thoái vốn khỏi các NHTM. Các tập đoàn sẽ đưa ra lộ trình thoái vốn định kỳ, ví dụ theo quý, theo bán niên 6 tháng.
- Bước 2: các đối tượng được yêu cầu thoái vốn sẽ thoái vốn bằng cách bán/chuyển nhượng cổ phần cho cổ đông khác. Đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, sẽ thoái vốn theo kế hoạch đưa ra. Nếu không thoái hết số lượng như kế hoạch, Công ty mua bán cổ phần (trình bày bên dưới) sẽ đứng ra mua một phần hoặc toàn bộ số cổ phần còn lại.
- Bước 3: thanh tra NHNN sẽ rà soát lại tỷ lệ sở hữu cổ phần hiện tại trong hệ thống NHTM. Đối với những tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn còn có tỷ lệ sở hữu trong các NHTM, cần yêu cầu những tập đoàn này chuyển nhượng quyền biểu quyết (voting rights) cho một bên thứ ba.
5.2.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu
Một trong những nguyên nhân chủ quan lớn nhất tạo kẽ hở cho tình trạng sở hữu chéo phát triển tràn lan là hệ thống các quy định pháp luật về quản lý và hạn chế sở hữu trong ngân hàng chưa chặt chẽ hoặc chặt chẽ nhưng chưa đồng bộ với các văn bản khác. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm kiểm soát vấn đề sở hữu là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, đối với những bất cập trong hệ thống luật có liên quan đến sở hữu ngân hàng, việc sửa đổi và bổ sung sẽ mất nhiều thời gian nên đồng thời với việc điều chỉnh các quy định này, NHNN có thể chủ động ban hành các văn bản dưới luật nhằm sửa đổi và bổ sung các quy định liên quan đến sở hữu chéo sao cho không trái với các quy định của pháp luật hiện hành nhưng phải đảm bảo mang tính chất tập trung, có nghĩa là nhóm các văn bản này nên chỉ tập trung vào các quy định về
sở hữu chéo nhằm tạo ra một hành lang pháp lý cụ thể và rõ ràng cho công tác quản lý và giám sát.
Theo nghiên cứu của nghiên cứu sinh, các vấn đề sau đây cần được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật một cách hoàn thiện hơn:
Thứ nhất, đối với quy định về công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu cổ phần
Cụ thể, theo Điều 26, Thông tư số 52/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán: cá nhân, tổ chức và nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng (trong trường hợp này là ngân hàng) mới phải báo cáo về tỷ lệ sở hữu cho các cơ quan quản lý. Nhưng theo Khoản 1, Điều 55, Luật các TCTD, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD. Do vậy, kết hợp hai quy định này với nhau, sẽ có rất ít cổ đông cá nhân của ngân hàng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu. Mặc dù khoản 3, điều 55 của Luật các TCTD đã quy định: cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD, nhưng quy định về “người có liên quan” hiện nay cũng chưa rõ ràng, do vậy, việc lách luật như trên hoàn toàn có thể xảy ra. Với những phân tích như vậy, có thể thấy để phát hiện được các mối quan hệ sở hữu chéo, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin, đặc biệt là nhóm đối tượng là người có liên quan, đồng thời cần hạ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ngân hàng mà ở đó chủ sở hữu phải công bố thông tin. Cụ thể, các đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu ngân hàng là: (i) Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1% trở lên; (ii) người có liên quan của các cổ đông phải công bố thông tin có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1%. Việc quy định này sẽ giúp cho việc xác định quan hệ sở hữu chéo dễ dàng hơn.
Thứ hai, bổ sung phạm vi quy định người có liên quan, người sở hữu cuối cùng và mở rộng đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu.
Theo Điều 55, luật Các TCTD 2010: cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD; Cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5%, tổ chức không quá 15% vốn điều lệ của TCTD; Các tỷ lệ sở hữu trên bao gồm cả phần vốn ủy thác cho các tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần. Tuy nhiên, như đã nêu, quy định hiện hành về người có liên quan của cổ đông không bao trùm hết, dù có mở rộng đối tượng phải công bố thông tin sở hữu thì sự nhập nhằng trong các mối quan hệ liên quan vẫn tạo cơ hội cho sở hữu chéo được
che giấu, không xác định được ai là người sở hữu cuối cùng. Thông qua những pháp nhân và thể nhân khác nhau, một cá nhân có thể sở hữu vượt những quy định trên. Do vậy, để khắc phục khó khăn trong quản lý, giám sát sở hữu, đầu tư chéo, cần hoàn thiện quy định hiện hành về xác định rõ “người liên quan“, bổ sung quy định về “người sở hữu cuối cùng“ và trao cho Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng quyền xác định “người sở hữu cuối cùng“ dựa trên nguyên tắc theo luật định. Cụ thể, đối với quy định về người có liên quan, trước mắt, đối với trường hợp, cổ đông cá nhân tuy chỉ sở hữu một lượng cổ phần tuân thủ Điều 55 Luật các TCTD 2010 nhưng nếu tính cả các bên liên quan của họ như vợ/chồng, gia đình của vợ/chồng có thể sẽ làm cho tỷ lệ sở hữu cao hơn mức quy định. Trong Luật hiện nay chỉ quy định cổ đông và các bên liên quan bao gồm gia quyến của chính cổ đông đó mà chưa bao gồm gia quyến của gia đình vợ/chồng của cổ đông đó. Do đó, NHNN cần mở rộng đối tượng về các bên liên quan trong Luật các TCTD 2010.
Thứ ba, đối với các quy định về thành phần của ban quản trị và ban điều hành: NHNN quy định số lượng thành viên ban quản trị của NHTM trong trường hợp điều lệ của của NHTM không có quy định
Theo thông lệ quốc tế, ban quản trị phải có tối thiểu 5 thành viên và tối đa 11 thành viên. Đồng thời, phải có xấp xỉ 1/3 số thành viên là các thành viên độc lập và không thuộc ban điều hành của ngân hàng (IFC, 2011). Sau cuộc khủng hoảng 1997, Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc đã buộc các công ty muốn niêm yết phải có tối thiểu là 1/4 thành viên của ban quản trị là các thành viên độc lập từ bên ngoài. Thành viên độc lập phải có những tiêu chí khắt khe như là cá nhân không đang làm việc cho ngân hàng, hoặc công ty trực thuộc ngân hàng, hoặc đã làm việc cho ngân hàng hoặc công ty trực thuộc ngân hàng trong một thời gian nhất định; không có mối quan hệ với những người có liên quan mà người đó sở hữu một lượng cổ phần nhất định của ngân hàng… Các thành viên độc lập có vai trò đưa ra các quyết định có tính khách quan và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực tới các cổ đông nhỏ lẻ do các cổ đông lớn, cổ đông có quyền kiểm soát NHTM thông qua sở hữu chéo gây ra.
Ngoài ra, cần tách biệt rõ ràng gữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, theo đó không cho phép thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của ngân hàng kiêm nhiệm chức vụ trong ban điều hành. Trên thực tế, tại Việt Nam, theo khoản 1, điều 48, luật các TCTD cho phép hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của TCTD là công ty cổ
phần, công ty TNHH được quyền bổ nhiệm một trong số các thành viên của mình làm Tổng giám đốc/Giám đốc. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm này có thể dẫn đến việc xung đột về lợi ích khi Tổng giám đốc (là một trong những chủ sở hữu) đưa ra những quyết định phục vụ cho một nhóm lợi ích mà không quan tâm đến quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ.
Hơn nữa, cần xác định rõ một pháp nhân không thể là thành viên ban quản trị cho dù một cá nhân đại diện cho pháp nhân đó có thể được bầu vào ban quản trị. Như vậy, cá nhân được bầu vào ban quản trị của NHTM chỉ có thể hành động với tư cách là một thành viên ban quản trị chứ không phải với tư cách là đại diện của pháp nhân, tức là cá nhân đó phải hành động vì lợi ích của tất cả các cổ đông chứ không phải chỉ vì riêng lợi ích của pháp nhân được cá nhân đó đại diện.
Tương tự, NHNN cũng cần có quy định về ban điều hành của NHTM nhằm hạn chế tình trạng sở hữu chéo có thể xảy ra như tổng giám đốc/giám đốc không được đồng thời là tổng giám đốc/giám đốc của một doanh nghiệp khác. Theo thông lệ quốc tế, tổng giám đốc/giám đốc không nên tham gia vào bất cứ hoạt động kinh doanh nào ngoài những việc liên quan tới vai trò quản lý, điều hành doanh nghiệp và việc quản trị các công ty con của ngân hàng.
Thứ tư, luật đã có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của các cá nhân cũng như các tổ chức trong NHTM. Tuy nhiên, để quy định này có hiệu quả hơn, luật nên bổ sung quy định cụ thể rõ ràng hơn về mức sở hữu cổ phần tối đa với từng loại cổ đông. Với cổ đông cá nhân có thể phân chi tiết hơn như: cá nhân tham gia quản lý, cá nhân không tham gia quản lý…Với cổ đông là tổ chức có thể phân thành các nhóm: tổ chức tài chính, tổ chức phi tài chính, tổ chức là cơ quan, DNNN.
5.2.2.4. Giám sát dòng tiền nhằm kiểm soát sở hữu
Thực hiện giám sát dòng tiền có thể là một giải pháp cần thiết nhằm xác định rõ nguồn gốc của các khoản tiền, từ đó góp phần kiểm soát tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng. Thực hiện kiểm soát chặt chẽ dòng tiền đầu tư của doanh nghiệp đã được áp dụng tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, bất cứ cá nhân hay doanh nghiệp nào muốn sở hữu tỷ lệ cổ phần ngân hàng vượt tỷ lệ quy định, thì ngân hàng đó phải xin phép Cục dữ trữ liên bang (FED). Bản thân FED sẽ tiến hành điều tra rõ nguồn gốc của dòng tiền được sử dụng để mua cổ phần ngân hàng nhằm xác định nguồn tiền sử dụng là tiền đi vay từ bên thứ ba hay tiền có từ bản thân doanh nghiệp.