Cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hoá khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương - 18

ngưỡng phồn thực. Không gian lễ hội như là hình thức ngụy trang để bảo vệ tự do tính dục. Hình thức đối phó cấm kỵ bản năng tính dục trong dân gian vô cùng phong phú, thể hiện ở nhiều lễ hội cổ truyền. Có thể kể đến những trò diễn gợi lên hoạt động tình dục của con người như trò chen, trò tắt đèn đêm giã la, trò diễn mô phỏng lại hành vi giao phối bằng các biểu tượng như trò múa mo ở Sơn Đồng, trò múa gà phủ, múa tùng dí, trò bắt chạch trong chum ở làng Văn Trưng, hoặc nhiều lễ hội vùng Phong Châu. Điểm chung của hoạt động lễ hội này là diễn ra một cách bí mật vào ban đêm, sợ triều đình biết sẽ ngăn cấm. Trong dân gian còn xuất hiện tục thờ nõ nường, rước sinh thực khí nam nữ, biểu diễn hành động giao hợp… Không gian hội hè, không có thờ thần nhưng lại là hình thức vui chơi, giải trí, các trò thi như bắt trạch trong chum, đánh đu… cũng là không gian che đậy và đồng lõa cho tình yêu tự do nam nữ. Biến thái của biểu tượng phồn thực trong điêu khắc như một cách ngụy trang. Sự cấm đoán của xã hội Nho giáo thể hiện rõ nét ở hình dáng kiến trúc Chùa Một Cột. Nhân dân ta đối phó với cấm đoán bản năng thật hay, xây dựng cái chùa nhỏ để che đậy cặp linga - yoni (hình tượng bông sen và giếng vuông)… Những ngọn tháp đều mang bóng dáng của dương vật. Que hương thân tròn thân vuông cũng là hình tượng cặp linga - yoni. Đối phó với cấm kỵ ở mỗi loại hình văn hoá, nghệ thuật mang sắc màu riêng. Nghệ thuật điêu khắc đình làng cũng diễn tả tính dục một cách đậm nét: khắc hình nam nữ đùa giỡn nhau khi tắm ở hồ sen, hay đùa giỡn nhau với cơ thể trần đầy gợi cảm. Như vậy, các biểu tượng phồn thực của văn hóa cổ hay của văn hóa Chăm đi vào văn hóa xã hội Nho giáo hóa đã phải thay hình đổi dạng để che lấp, ngụy trang nhằm tránh cái nhìn xoi mói của con mắt đạo đức nhà Nho mà ngày nay, các nhà nghiên cứu đã phải giải mã giúp chúng ta hiểu được bản lai diện mục của chúng.

2.Cấm đoán đề cập đến bản năng là sự cấm đoán bằng mệnh lệnh mà cũng có thể do sự “tự cấm đoán” (con người xưa tự kiểm duyệt mình) nói đến đề tài về tính dục, đối phó với cấm kỵ chính là tìm cách nói sao cho vẫn đề cập đến đời sống bản năng tính dục mà vẫn che giấu, ngụy trang, biện minh được trước sự

trách cứ của đạo đức Nho giáo. Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương là một hình thức nghệ thuật ngôn từ, tức một đối tượng khác với kiến trúc, nghệ thuật diễn xướng, hay khác với lễ hội... Cho nên những vần thơ lấp lửng thanh tục thuộc vào hình thức đối phó với cấm kỵ bản năng rất độc đáo hấp dẫn. Cách đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống ở thơ Hồ Xuân Hương là sử dụng thủ pháp đề vịnh và nói lái. Đề vịnh vốn không xa lạ với nhà Nho, song ở đây, đề vịnh không phải là để nói chí, tải đạo mà để nói đến bản năng, điều mà thi ca nhà Nho né tránh, coi là dâm tục. Điều độc đáo trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân là nhà thơ công phu lựa chọn đối tượng đề vịnh (vịnh vật, vịnh cảnh vật, vịnh các hoạt động lao động và vui chơi, vịnh người) một cách chính xác sao cho các đối tượng đó vừa gợi mở liên tưởng của người nghe về bộ phận sinh dục nữ, về sinh hoạt tình dục đồng thời vẫn là chính nó, rất nghiêm túc (bánh trôi, quả mít, ốc nhồi, cái quạt, cái giếng, cái trống thủng, đồng tiền hoẻn, đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, hang Thánh Hoá, kẽm trống, động Hương Tích, đánh đu, dệt vải, tát nước, chơi hoa, nữ vô âm, ông cử võ, bà lang khóc chồng…). Những bài thơ vịnh vật này bà chúa thơ Nôm đã thành công trong việc kết hợp miêu tả cái thực với cái ảo, cái cụ thể với cái trừu tượng, cái công khai với cái ẩn kín, cái mình thấy với cái mình cảm theo bút pháp nghệ thuật “đồng hiện”, làm cho hình tượng thơ xuất hiện với hai nghĩa thanh tục khó có thể bóc tách. Cái thực, cái cụ thể, cái công khai, cái mình thấy trong những bài thơ vịnh vật trên đây là đối tượng nhà thơ miêu tả trong tác phẩm. Còn cái ảo, cái trừu tượng, cái ẩn kín, cái mình cảm trong thơ Nôm vịnh vật là hình tượng nghệ thuật mà Xuân Hương nhằm đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống. Đó chính là những hình ảnh về vẻ đẹp ở bộ phận kín đáo trên thân thể người phụ nữ, là vẻ đẹp của hành động tính giao.

Các môtíp được Hồ Xuân Hương vận dụng vào trong thơ để đối phó với cấm kỵ bản năng rất đa dạng và phong phú. Sự phong phú, đa dạng của chúng có thể phân loại thành nhiều kiểu. Đầu tiên có thể kể đến là môtíp chỉ âm vật: hang (Hang Cắc Cớ, Hang Thánh Hoá), “Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”, “Ở

trong hang núi còn hơi hẹp”, “Rạng hang một lúc đã đầy phè”; động (Động Hương Tích); đèo (Đèo Ba Dội); kẽm (Hai bên thì núi, giữa thì sông/Có phải đây là kẽm Trống không?); khe (Lách khe nước rỉ mó lam nham); ghềnh “Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve”; cửa (Qua cửa đó), “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc”, “Qua cửa mình ơi nên ngắm lại”; giếng (Giếng); lỗ “Cọc nhỏ đi rồi lỗ bỏ không”, “Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”, “Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom”; kẽ hầm “Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn”; kẽ rêu “Trưa trật nào ai móc kẽ rêu”; xỏ kẽ “Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo”; cái quạt (Cái quạt I, Cái quạt II); cá diếc “Cá diếc le te lách giữa dòng”; nạ (Đố ai dám thả nạ rồng rồng); ba chạc (Ba chạc cây xanh hình uốn éo); ba góc “Lẽo đẽo chiếc gàu ba góc chụm”; diều “Kìa cái diều ai nó lộn lèo”; trăng “Giữa in chiếc bích khuôn còn méo/Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm”; gì bà cốt “Đầu sư há phải gì bà cốt”; lá đa “Nhớ hái cho xin nắm lá đa”; thuyền “Con thuyền vô trạo cúi khom khom”… Biểu tượng liên tưởng chỉ dương vật: cá chuối “Đố ai dám thả nạ rồng rồng”; nõ “Quân tử có thương thì đóng ”; hòn đá “Hòn đá xanh rì lún phún rêu”; kèo tre “Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo”; cọc “Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không”; suốt “Một suốt đâm ngang thích thích mau”; dùi “Nó thủng vì chưng nó nằng dùi”; ông cử võ “Đầu đội nón da loe chóp đỏ/Lưng đeo bị đạn rủ thao đen”; củ đa “Cho cả cành đa lẫn củ đa”; sừng “Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”; nọc “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa”; đầu sư “Đầu sư há phải gì bà cốt/Bá ngọ con ong bé cái nhầm”… Giọt nước chỉ tinh dịch đàn ông, cành thông ngầm nhắc linga: “Nước trong leo lẻo một dòng thông”; “Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc”, “Một dòng nước biếc cảnh leo teo”, “Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”, “Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm”, “Giọt nước hữu tình rơi thánh thót”… Những hình ảnh, biểu tượng ám chỉ hành vi tính giao: đóng “Quân tử có thương thì đóng ”; thả “Đố ai dám thả nạ rồng rồng”; cắm “Rộng hẹp nhường nào cắm một cây”; thốc, gieo “Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc/Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”; trèo “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”, “Đã chót chơi hoa phải cố trèo/Trèo lên trèo xuống mỏi xương kheo”; cọ “Khối tình cọ mãi với non

sông”, Qua cửa “Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người bế bá/Gớm con tạo, lừa cơ tem hẻm, rút rút xuôi cho lọt khách cổ kim”; đánh đu “Trai đu gối hạc, khom khom cật/Gái uốn nương long ngửa ngửa lòng”; đá ông chồng bà chồng “Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc/Thớt dưới sương pha đượm má hồng”; dệt cửi “Hai chân đạp xuống năng năng nhắc/Một suốt dâm ngang thích thích mau”; tát nước “Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa/Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve”; đánh trống “Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc/Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi/ Khi giang thẳng cánh bù khi cúi/ Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi”; châm, húc “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”; Xỏ kẽ kèo tre “Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo”; chơi nguyệt “Ừ, rồi thong thả lên chơi nguyệt”; ghẹo nguyệt “Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày”; chơi hoa “Đã chót chơi hoa phải cố trèo”; mây mưa “Anh hùng đua chí hội mây mưa”; quệt “Này của Xuân Hương đã quệt rồi”… Những biểu tượng gợi dục khác trên thân thể người phụ nữ: thân thể phụ nữ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, “Thân em như quả mít trên cây/Vỏ nó xù xì múi nó dày”; ngực “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi”… Những cụm từ, hình ảnh nằm trong trường nghĩa liên tưởng khiến người đọc nghĩ đến chỗ kín: cỏ gà lún phún “Cỏ gà lún phún leo quanh mép”; đám cỏ hôi “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”; lún phún rêu “Hòn đá xanh rì lún phún rêu”; cỏ leo sờ rậm rạp “Lườn đá cỏ leo sờ rập rạp”; mái cỏ “Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác”, nhựa “Xin đừng mân mó nhựa ra tay”…

Nói lái cũng nằm trong hệ thống chỉ các bộ phận sinh dục nam nữ, hành vi tính giao: đá đeo, đếm đeo, đếm lại đeo, trái gió, lộn lèo, lộn vòng, lộn trời, lộn phèo, lộn giây lèo, đáo nơi neo, suông không đấm, nắng cực, đẽo đá, đứng chéo.

Ý nghĩa của hiện tượng: trường hợp những bài thơ Nôm lấp lửng hai nghĩa của Hồ Xuân Hương sử dụng để đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống là hiện tượng văn hóa độc đáo, tuy nó có phần cực đoan, song đã cho thấy tính chất vô lý, phản tự nhiên, thậm chí có thể là giả dối của những cấm đoán

bản năng tính dục (cái bản năng như một phần tất yếu của con người). Cái gì phản tự nhiên tất yếu sẽ bị chống lại, kể cả bằng những hình thức cực đoan.

Không chỉ có văn học dân gian, thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương (những bài thơ vịnh cảnh, vịnh vật và có nghệ thuật nói lái, chơi chữ) mới viết về sex, kể cả văn học bác học cũng có thể dám đề cập đến đời sống bản năng của con người. Tất nhiên cả hai dòng văn học này không thể diễn ngôn một cách thẳng thắn về chuyện tính dục mà cần có thủ pháp nào đó để đối phó với cấm kỵ bản năng. Cách đối phó của văn học bác học kín đáo, thanh nhã hơn so với văn học dân gian, thơ Hồ Xuân Hương. Một số tác phẩm sau đây sẽ minh chứng rõ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

Tác phẩm Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn sáng tác, Đoàn Thị Điểm dịch) là một văn bản dùng thủ pháp bác học của văn học truyền thống để đối phó với cấm kị bản năng. Tác giả tạo cảm giác ân ái nhục thể bằng biểu tượng “buồng”, “chiếc chăn” (Chàng thì đi cõi xa mưa gió - Thiếp thì về buồng chiếc chăn); “hương lửa”, “nồng” (Nửa năm hương lửa đương nồng); dùng “nhẫn” để gợi chồng liên tưởng đến bàn tay (Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía); dùng “trâm” để chồng nhớ mái tóc (Trâm cài, xiêm thắt thẹn thùng) muốn chồng, nhớ đến khuôn mặt lại dùng “điểm phấn” (Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai); muốn gửi đến chiến trường vài vật kỉ niệm “thoa, gương” (Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá - Gương lầu Tần dấu cũ soi chung) để gợi nên nỗi nhớ nhung của chồng; đặc biệt là giấc mơ “Dương Đài, Tương Phố” chính là giấc mộng ân ái (Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ - Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa)

Cung oán ngâm khúc cũng được Nguyễn Gia Thiều sử dụng đối phó cấm kị theo kiểu văn hoá bác học. Người cung nữ hồi tưởng lại ngày mới vào cung gặp bao may mắn, đấng quân vương sủng ái, yêu chiều. Nhân vật trữ tình mỗi lần nhớ đến đêm hôm ấy, trái tim nàng lại rạo rực, thèm khát:

Cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hoá khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương - 18

“Cái đêm hôm ấy hôm gì,

Bóng dương lồng với bóng đồ mi trập trùng.”

Chồi thược dược mơ mòng thuỵ vũ, Đoá về hải đường thức ngủ xuân tiêu

Cành xuân hoa chúm chím đào

Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai”.

Tính chất ước lệ mà tác giả sử dụng khơi đến những ám ảnh xa xôi về chuyện lứa đôi ân ái. Hơn nữa, nếu chú ý chúng ta sẽ thấy hang sâu gợi lên sự liên tưởng bộ phận kín đáo của người phụ nữ và mặt trời tượng trưng cho sự tiếp xúc với đàn ông:


Hay:

Hang sâu hé chút mặt trời dâm”


Một cây cù mộc biết chen cành nào”

Nguyễn Du dùng lối nói uyển ngữ khi tiếc thương cho thân phận Thuý Kiều sống ở lầu xanh:

“Tiếc thay một đoá trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Như vậy, với thủ pháp bác học mượn ở “mã tính dục” của văn học Trung Quốc của các tác giả bác học tạo nên những câu thơ tuy viết về bản năng nhưng rất tinh tế và ý nhị, khác xa so với lối diễn đạt của văn học dân gian.

Cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hoá, khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là một để tài không nhỏ, những vấn đề mà chúng tôi đặt ra và giải quyết cũng chỉ mới là bước đầu. Nhiều công việc tiếp theo liên quan đến đề tài vẫn đang chờ giải quyết, chẳng hạn: khảo sát kỹ hơn vấn đề cấm kỵ và đối phó cấm kỵ trước và sau thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương… Khảo sát về đề tài cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hoá (khảo qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương) là một đề tài hết sức thú vị, bởi vậy chúng tôi mong sau này sẽ lần lượt tiếp tục giải quyết những vấn đề liên quan mà luận văn còn để ngỏ.

Phụ lục

Dựa theo hai tài liệu sưu tầm của Đỗ Lai Thuý và Kiều Thu Hoạch chúng tôi đã lựa chọn được 54 bài thơ của Hồ Xuân Hương sáng tác nhằm đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống. Đây chính là đối tượng nghiên cứu trong công trình của chúng tôi.

1. Bánh trôi

Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

(Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực)

2. Cái giếng

Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông, Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng. Cầu trắng phau phau đôi ván ghép, Nước trong leo lẻo một dòng thông. Cỏ gà lún phún leo quanh mép,

Cá diếc le te lách giữa dòng. Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết, Đố ai dám thả nạng rồng rồng.

(Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực)

3. Cái quạt (I)

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa, Duyên em dính dáng tự ngàn xưa. Chành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Mát mặt anh hùng khi tắt gió, Che đầu quân tử lúc sa mưa.

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng, Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

(Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực)

4. Cái quạt (II)

Mười bảy hay là mười tám đây, Cho ta yêu dấu chẳng rời tay. Mỏng dày chừng ấy chành ba góc, Rộng hẹp nhường nào cắm một cây.

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy, Chúa dấu vua yêu một cái này!

(Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực)

5. Quả mít

Thân em như quả mít trên cây, Vỏ nó sù sì, múi nó dày.

Quân tử có thương thì đóng cọc, Xin đừng mân mó nhựa ra tay.

(Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực)

6. Ốc nhồi

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi, Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi. Quân tử có thương thì bóc yếm, Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

(Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực)

7. Đồng tiền hoẻn

Cũng lò cũng bễ cũng cùng than, Mở mặt vuông tròn với thế gian. Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 03/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí