Những Vấn Đề Phát Sinh Từ Thực Tiễn Xét Xử Các Tranh Chấp Tài Sản Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn

Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại TAND huyện Điện Bàn để thấy rõ quy định của pháp luật về vấn đề này và những hạn chế của nó. Nhìn chung, Luật HN&GĐ đã quy định tương đối đầy đủ, cụ thể và rõ ràng các căn cứ xác định tài sản của vợ chồng và những nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Tuy còn một số hạn chế, vướng mắc mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau nhưng so với Luật HN&GĐ năm 1986 thì Luật HN&GĐ năm 2000 đã có bước phát triển đáng kể, đảm bảo được tính khả thi của nó trong thực tế cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu của người dân và phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt của chủ sở hữu.

Chương 3‌

NHỮNG VẪN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ

VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN

GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN


Trong những năm gần đây, số lượng các vụ án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản ngày một gia tăng, thực tiễn xét xử của Tòa án tại địa phương cho thấy đây là loại án phức tạp, khó giải quyết từ việc thu thập, đánh giá chứng cứ đến việc áp dụng pháp luật. Do vậy, khi giải quyết các tranh chấp, Tòa án thường lúng túng, gặp nhiều khó khăn làm cho thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài, qua nhiều cấp xét xử và đôi lúc hướng giải quyết còn chưa thống nhất. Thực trạng này xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả xét xử là hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp còn chung chung, quan điểm xét xử chưa thống nhất lại còn bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế, đạo đức và thực tế cuộc sống, từ đó phát sinh những vấn đề mới nằm ngoài dự liệu của các nhà làm luật.

3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

3.1.1. Vướng mắc về nhận thức và áp dụng pháp luật

Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn còn chung chung, chưa rõ ràng, cần có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể hơn. Tuy nhiên, các nhà làm luật khi xây dựng Luật HN&GĐ đã thấy được mối quan hệ tài sản phức tạp phát sinh xung quanh vấn đề quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, từ đó kịp thời điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, góp phần tạo điều

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

kiện thuận lợi cho vợ chồng giải quyết những vướng mắc xảy ra trong đời sống chung, đảm bảo quyền lợi của vợ chồng cũng như người liên quan, đồng thời là cơ sở pháp lý để các cơ quan thực thi pháp luật giải quyết ổn thỏa các tranh chấp xảy ra.

Thực tế áp dụng pháp luật hôn nhân gia đình để giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân thì rất nhiều nhưng phải kể đến trước hết là việc nhận thức và áp dụng pháp luật của người dân cũng như những người thực thi pháp luật còn chưa đầy đủ dẫn đến việc xác định mối quan hệ tài sản và giải quyết tranh chấp gặp nhiều khó khăn.

Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - 10

- Nhận thức của người dân

Pháp luật quy định các nguyên tắc ứng xử trong cuộc sống và những quy định bắt buộc mọi công dân phải chấp hành, tôn trọng quyền định đoạt của người dân. Tuy nhiên, do không hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật kém nên mặc dù pháp luật đã quy định rõ nhưng một số người dân không chấp hành đúng.

Nhận thức của người dân trong việc xác định các giao dịch dân sự được xác lập trong thời kỳ hôn nhân và các nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng là một ví dụ. Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng được hiểu là nghĩa vụ phát sinh khi cả hai bên hoặc một bên thực hiện hành vi vì lợi ích của gia đình hoặc nghĩa vụ phát sinh theo thỏa thuận của vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân, đa số các giao dịch dân sự do một bên xác lập dựa trên lợi ích của gia đình thường không được tính toán và ghi nhận rõ. Do yếu tố tình cảm chi phối nên vợ chồng nhiều khi không tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến tài sản chung, đặc biệt là các tài sản có giá trị lớn. Vì vậy, khi tranh chấp xảy ra, việc xác định nghĩa vụ chung hay riêng thường không có cơ sở để chứng minh. Nếu không thỏa thuận được, các bên thường tìm cách đưa ra

những chứng cứ để lẩn tránh trách nhiệm của mình, gây khó khăn cho bên kia trong việc chứng minh và yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp này, nếu Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai, chứng cứ mà các bên cung cấp để giải quyết thì có thể đưa ra phán quyết không chính xác. Nguyên nhân của nó là do ý thức pháp luật của một bên đương sự còn kém, khi xác lập giao dịch thì đồng ý nhưng khi tranh chấp xảy ra thì không thừa nhận.

Ví dụ: vợ chồng thống nhất vay của người bạn một số tiền để buôn bán. Do tin tưởng nhau nên hai bên không viết giấy tờ gì. Khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly hôn, một bên không thừa nhận khoản nợ này là nợ chung của vợ chồng. Vì vậy, bên kia phải có nghĩa vụ chứng minh lời khai của mình, song để chứng minh trong trường hợp này không hề đơn giản. Hay như trường hợp xác lập các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất. Pháp luật quy định khi xác lập giao dịch về việc nhập, tách, mua bán, tặng cho quyền sử dụng đất phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc biệt, trong trường hợp cha mẹ vợ (chồng) cho vợ chồng quyền sử dụng đất, do không hiểu biết pháp luật hoặc chủ quan, tin tưởng nhau nên các bên không thực hiện đúng quy định. Khi tranh chấp xảy ra thì Tòa án chỉ căn cứ vào chứng cứ đương sự cung cấp phù hợp với quy định của pháp luật nên không thể xác định giao dịch đã được xác lập. Vì vậy, các bên không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình.

Nguyên tắc thỏa thuận khi chia tài sản chung của vợ chồng đặt ra trên cơ sở tôn trọng ý chí, sự tự do định đoạt của hai bên vợ chồng đối với khối tài sản chung. Điều này thể hiện “việc chia tài sản khi ly hôn do vợ, chồng thỏa thuận…” “việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng do vợ chồng tự thỏa thuận” (khoản 1, khoản 3 điều 95 Luật HN&GĐ). Chỉ khi nào các bên không thỏa thuận được với nhau thì Tòa án mới giải quyết. Quy định này đã tạo thuận lợi cho vợ chồng trong quá trình giải quyết tranh chấp, làm

cho vụ án được giải quyết nhanh chóng và số tiền án phí nộp vào ngân sách cũng được giảm một phần, tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong vụ án. Tuy nhiên, chính quy định này cũng bị một trong hai bên hoặc cả hai bên vợ chồng lợi dụng nhằm mục đích xấu cho bản thân mình. Nhiều trường hợp vợ chồng thống nhất ly hôn giả nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ trả nợ, tẩu tán tài sản, xuất cảnh, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế …

Thực tiễn giải quyết các vụ án hôn nhân tại địa phương có tranh chấp về tài sản không nhiều. Đa số các vụ án, đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tài sản hoặc tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp không yêu cầu Tòa án giải quyết, đương sự không phải chịu án phí về việc chia tài sản. Nếu các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí quy định. Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó [26]. Như vậy, nếu việc thỏa thuận của đương sự có sự tác động của Tòa án trước khi mở phiên tòa và được ghi vào quyết định thì đương sự phải chịu ½ án phí theo quy định. Nhiều trường hợp các đương sự đã thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tài sản song khi án có hiệu lực lại không tự nguyện thi hành làm cho bên bị thiệt hại phải yêu cầu cơ quan Thi hành án tổ chức thi hành. Trường hợp việc thỏa thuận không được ghi nhận vào bản án, quyết định thì đương sự lại phải yêu cầu Tòa án giải quyết một lần nữa. Như vậy, việc thỏa thuận sẽ giảm được thời gian, công sức của vợ, chồng khi tham gia giải quyết vụ án nhưng do nhận thức pháp luật không đầy đủ nên làm cho các bên phải mất thêm thời gian để giải quyết vụ án phát sinh.

Trong các vụ án hôn nhân mà đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tài sản thì Tòa án chỉ công nhận sự thỏa thuận đó. Nếu các

đương sự không có tranh chấp thì Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai, sự thỏa thuận của họ để giải quyết. Theo quy định tại Điều 6 BLTTDS thì “các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do BLDS quy định”. Trường hợp BLDS quy định là những trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập và có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Như vậy, nếu vợ, chồng muốn tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ tài sản nên cố tình không kê khai và yêu cầu giải quyết các nghĩa vụ tài sản mà họ phải thực hiện thì Tòa án không thể biết để giải quyết được.

Một số trường hợp vợ chồng có khai nợ của một số người có quyền lợi liên quan nhưng có thể họ cho rằng quyền lợi của họ sẽ do vợ chồng chịu trách nhiệm rồi nên cố tình không đến Tòa án làm việc. Việc này trước hết sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chính những người này, đồng thời gây khó khăn và làm mất thời gian của vợ, chồng cũng như cơ quan thực thi trong quá trình giải quyết vụ án.

- Nhận thức và áp dụng pháp luật từ phía cơ quan thực thi pháp luật.

Pháp luật quy định về phương thức giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng tương đối đầy đủ, rõ ràng nên áp dụng giải quyết được nhanh chóng, chính xác. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ tuy hiểu rõ các quy định của pháp luật nhưng do ý thức kém, vì lợi ích cá nhân mà cố tình làm sai lệch hồ sơ dẫn đến giải quyết vụ án không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự. Đồng thời, cũng có nhiều trường hợp do chủ quan, không nghiên cứu kỹ hồ sơ cũng như các văn bản pháp luật nên việc thu thập, đánh giá chứng cứ không được đầy đủ, khách quan dẫn đến việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự trong vụ án.

Vì vậy, để vụ án được giải quyết đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đương sự tham gia trong vụ án thì trước hết, mỗi người dân phải có ý thức tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật đã quy định. Đồng thời, mỗi cán bộ khi thực hiện nhiệm vụ của mình cần nhận thức đúng và đầy đủ quy định của pháp luật để vận dụng vào vụ án được hợp tình, hợp lý.

3.1.2. Vấn đề định giá tài sản tranh chấp

Một trong những nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc chia theo giá trị, song không phải bất cứ vụ án ly hôn nào cũng có thể chia hiện vật cho cả hai bên đương sự. Vì vậy, việc định giá tài sản để chia giá trị cho bên không nhận hiện vật và là cơ sở để tính án phí buộc đương sự phải nộp. Thực tế giải quyết tranh chấp về tài sản trong các vụ án ly hôn tại địa phương có những vụ án bị khiếu kiện kéo dài mà nguyên nhân chính là do định giá tài sản không đúng và chia hiện vật cho một bên.

BLTTDS quy định việc định giá tài sản tại điều 92 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011), theo đó tại điểm b khoản 2 có quy định Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp khi các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước. Với quy định này thì có hai trường hợp mà Tòa án phải ra quyết định định giá:

Thứ nhất, các bên tranh chấp thống nhất với nhau về giá trị tài sản tranh chấp và đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận này.

Thứ hai, hai bên không thống nhất với nhau về giá trị tài sản tranh chấp nhưng thống nhất với nhau về việc thuê tổ chức thẩm định giá để xác định giá trị tài sản tranh chấp.

Thông thường, nếu có nghi ngờ mức giá đương sự đưa ra là thấp thì Tòa án làm công văn tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính và các cơ quan

có liên quan. Sau khi nhận được ý kiến tham khảo của các cơ quan chuyên môn mà xác định giá tài sản các đương sự thỏa thuận là thấp thì Tòa án mới ra quyết định định giá tài sản.

Vấn đề đặt ra lúc này là đương sự cho rằng giá thỏa thuận đã phù hợp với giá thị trường và không đồng ý nộp tiền tạm ứng chi phí định giá thì Tòa án phải giải quyết như thế nào lại chưa có văn bản hướng dẫn.

Hơn nữa, có một số trường hợp, cả hai bên đương sự đều không có yêu cầu định giá và không thỏa thuận giá trị tài sản hoặc người có đơn yêu cầu không chịu nộp chi phí định giá, trong khi vụ án cần phải có kết quả định giá mới giải quyết được.

Theo quy định tại điều 140 BLTTDS thì “người yêu cầu định giá phải nộp tiền chi phí định giá, trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp các bên không thống nhất được về giá mà yêu cầu Tòa án định giá hoặc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 điều 92 của Bộ luật này thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí định giá”.

Như vậy, nếu các đương sự không yêu cầu định giá thì Tòa án không có cơ sở để định giá vì định giá tài sản là một trong những nguồn chứng cứ theo quy định tại điều 82 BLTTDS. Nếu đương sự không yêu cầu thì Tòa án không thể thu thập được. Đồng thời, khi đương sự không có yêu cầu hoặc không chấp nhận nộp tiền tạm ứng chí phí định giá thì Tòa án cũng khó quyết định định giá. Thông thường, Tòa án giải thích quy định của pháp luật để đương sự hiểu và yêu cầu đương sự nộp tạm ứng chi phí định giá. Nếu đương sự vẫn không nộp tạm ứng chi phí định giá thì Tòa án có nên ứng tiền chi bồi dưỡng định giá và quyết định nghĩa vụ nộp chi phí định giá vào bản án để buộc đương sự phải thi hành. Tuy nhiên, giải quyết các trường hợp này thường khiến cho Tòa án lúng túng, khó khăn khi quyết định.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/11/2023