Tổng Quan Quá Trình Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Tại Trung Quốc

hay thua lỗ. Vì vậy, các khoản vay của chaebol chiếm một tỷ lệ rất lớn trong hệ thống NHTM. Có ngân hàng cho một doanh nghiệp vay tới 45% tổng dư nợ tín dụng. Thậm chí, tổng dư nợ của một tập đoàn chaebol tại một ngân hàng có thể lên tới 300% tổng nguồn vốn của ngân hàng đó. Do Chính phủ giới hạn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, nên lợi nhuận của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc thuộc loại thấp nhất trong các nền kinh tế mới nổi vào thời điểm đó và là khâu dễ bị tổn thương nhất trước các cuộc khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài.

Để ứng phó với rủi ro khủng hoảng tài chính từ bên ngoài và những yếu kém nội tại của hệ thống ngân hàng trong nước, Hàn Quốc đã tiến hành đồng bộ một loạt các giải pháp được đánh giá là tương đối thành công với sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan như: Ủy ban Dịch vụ tài chính Hàn Quốc (FSC), Bảo hiểm Tiền gửi Hàn Quốc (KDIC), Cơ quan Dịch vụ tài chính Hàn Quốc (FSS), Công ty Quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO) và một số NHTM quan trọng… Cụ thể:

a. Về hoàn thiện cơ sở pháp lý cho quá trình tái cấu trúc: Hàn Quốc coi việc thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ, kịp thời được xem là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho các biện pháp tái cơ cấu và xử lý nợ xấu được thực thi nghiêm túc, nhanh chóng và công khai, minh bạch, hiệu quả, giảm thiểu tối đa các tranh chấp, xung đột lợi ích và những tác động bất lợi từ khủng hoảng. Nước này đã ban hành đầy đủ các quy định cụ thể, rõ ràng các quan điểm, chủ trương, cách thức vận hành thị trường tài chính và quá trình tái cơ cấu, xử lý nợ xấu; riêng trong lĩnh vực ngân hàng đã ban hành 6 bộ luật chuyên biệt (gồm: Luật về tăng cường tái cấu trúc trong lĩnh vực tài chính; Luật về cải tổ chức năng và nhiệm vụ của KAMCO; Luật Bảo hiểm tiền gửi; Luật Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền; Quy định riêng về “Hành động chấn chỉnh kịp thời” đối với hoạt động của các ngân hàng, ngân hàng tiết kiệm tương hỗ) nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt cho các cơ quan chức năng như FSC, FSS, KDIC, KAMCO… trong việc can thiệp và áp dụng các công cụ chính sách, quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng nước này.

b. Các biện pháp tái cơ cấu NHTM: Hàn Quốc áp dụng các biện pháp gồm: tự chấn chỉnh, củng cố; sáp nhập, hợp nhất tự nguyện; sáp nhập, hợp nhất, chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém; phá sản đối với các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, không có khả năng gây tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và thị

trường tài chính…. Hàn Quốc không chủ trương cho phá sản ngân hàng yếu kém vì lo ngại sẽ gây ra hậu quả nặng nền đến tình hình kinh tế - xã hội của nước họ.

Bước đầu tiên của quá trình tái cơ cấu ở Hàn Quốc là áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế để đánh giá tình hình tài chính, các khoản nợ xấu và tiến hành phân loại, nhận diện các ngân hàng. Các ngân hàng được nhận diện thuộc loại yếu kém sẽ phải thực hiện tự chấn chỉnh, củng cố bắt buộc trong một giai đoạn theo yêu cầu của FSC và chịu sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ của FSS. Sau thời gian tự chấn chỉnh, củng cố bắt buộc đó, nếu ngân hàng yếu kém không có khả năng phục hồi thì sẽ buộc phải sáp nhập, hợp nhất hoặc bán cho các nhà đầu tư khác.

Đối với NHTM có tài sản nợ lớn hơn tài sản có thì cổ phiếu của ngân hàng được xác định và tuyên bố công khai là không còn giá trị. Khi đó, cổ đông sẽ mất toàn bộ quyền lợi tại ngân hàng, FSS sẽ tiếp quản và có toàn quyền xử lý NHTM này. Việc tiếp quản của FSS trên thực tế thường vấp phải sự phản đối của các cổ đông nhưng vì luật pháp Hàn Quốc quy định rất rõ ràng, cụ thể và trao quyền xử lý đủ mạnh cho FSS nên sự phản đối của các cổ đông được FSS xử lý ổn thỏa, không gây tác động tiêu cực đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

Đến tháng 7/1998, Hàn Quốc đã yêu cầu đóng cửa 05 ngân hàng yếu kém có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 8% thông qua biện pháp hợp nhất, sáp nhập hoặc bán lại cho các nhà đầu tư khác; yêu cầu 07 ngân hàng yếu kém khác phải thực hiện tái cơ cấu dưới sự giám sát của NHTW và FSC thông qua các biện pháp tăng mức vốn tối thiểu, thay đổi ban điều hành ngân hàng và giảm quy mô, phạm vi hoạt động. Hàn Quốc cũng cho phép FSS được thuê nhóm chuyên gia độc lập thẩm định phương án xử lý này làm cơ sở cho FSS xem xét, quyết định phê duyệt. Cơ chế này giúp đẩy nhanh quá trình thẩm định phương án xử lý các ngân hàng yếu kém và giảm tải công việc cho FSS.

Khi thực hiện các biện pháp sáp nhập, hợp nhất hoặc bán các ngân hàng yếu kém cho các nhà đầu tư khác, Hàn Quốc chấp nhận chuyển giao các tài sản “xấu” của ngân hàng cho KAMCO xử lý nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện sáp nhập, hợp nhất, mua lại ngân hàng yếu kém tiếp nhận các tài sản “tốt” để nhanh chóng ổn định và cải thiện hoạt động sau sáp nhập, hợp nht, mua lại. Đồng thời, Hàn Quốc áp dụng nhiều cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư nước

ngoài tham gia vào quá trình củng cố, sáp nhập, hợp nhất và mua lại các ngân hàng yếu kém.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Quá trình tái cơ cấu ở Hàn Quốc không chỉ diễn ra đối với các ngân hàng yếu kém mà được tiến hành ở tất cả các tổ chức tài chính, ngân hàng. Chính phủ nước này khuyến khích các NHTM lớn sáp nhập và hợp nhất với nhau để trở thành các ngân hàng hàng đầu có khả năng cạnh tranh hiệu quả với các ngân hàng nước ngoài. Tháng 11/2001, 02 ngân hàng lớn của Hàn Quốc là Kookmin Bank và Housing & Commercial Bank đã tự nguyện sáp nhập để trở thành ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc.

Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM, khác với tại Việt Nam và Trung Quốc, cơ quan bảo hiểm tiền gửi quốc gia (KDIC) đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thông qua việc hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng yếu kém để bảo đảm thanh khoản.

Cải cách hệ thống ngân hàng trung quốc và một số bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam - 7

c. Các biện pháp xử lý nợ xấu: Hàn Quốc khuyến khích các ngân hàng xử lý nợ xấu bằng các biện pháp tự thân, mua bán trên thị trường mua bán nợ và bán nợ xấu cho KAMCO thông qua việc khuyến khích, hỗ trợ thị trường mua bán nợ phát triển và được cụ thể hóa bằng một hệ thống luật pháp đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, tạo sự chủ động, linh hoạt cho các chủ thể tham gia quá trình xử lý nợ xấu, đặc biệt là các quy định liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm. Trong đó, Chính phủ Hàn Quốc trao quyền rất lớn cho KAMCO trong việc xử lý nợ xấu thông qua một bộ luật riêng biệt về cải tổ chức năng và nhiệm vụ của KAMCO. KAMCO ưu tiên mua lại các khoản nợ xấu có khả năng phát mãi, các khoản được coi là điều kiện sống còn để phục hồi tổ chức tài chính và các khoản nợ xấu có nhiều chủ nợ. KAMCO áp dụng nhiều biện pháp xử lý nợ xấu đã mua, trong đó có hai biện pháp rất hiệu quả là đấu thầu quốc tế (mặc dù vấp phải sự phản đối gay gắt của người dân nhưng Chính phủ Hàn Quốc vẫn quyết tâm thực hiện vì các nhà đầu tư trong nước không có đủ nguồn lực để mua lại các khoản nợ cần phát mại, nhờ đó một khối lượng lớn nợ xấu đã được xử lý nhanh chóng) và chứng khoán hóa các khoản nợ đã mua có bảo đảm bằng tài sản (ABS) (biện pháp này được triển khai rất thành công, từ đó thúc đẩy thị trường vốn phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn, không chỉ dừng lại ở chứng khoán được bảo đảm bằng

tài sản có vấn đề, mà còn có cả các tài sản lành mạnh). Các biện pháp xử lý nợ xấu khác như bán tài sản bảo đảm thu hồi nợ, chuyển nợ thành vốn góp… cũng được KAMCO áp dụng thành công do hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này ở Hàn Quốc khá hoàn chỉnh và ưu tiên bảo vệ quyền chủ nợ.

d. Về nguồn lực cho tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu: để có nguồn lực đủ mạnh nhằm thực hiện nhanh quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu trong bối cảnh ngân sách nhà nước gặp khó khăn, không đủ để hỗ trợ trực tiếp cho các tổ chức tài chính cải thiện tình hình hoạt động, Chính phủ Hàn Quốc đã giao cho KDIC và KAMCO thành lập quỹ hỗ trợ tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Các Quỹ này đã phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh để bơm vốn hỗ trợ các tổ chức tài chính, các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng yếu kém cải thiện thanh khoản và phục hồi hoạt động thông qua việc mua cổ phần, mua các khoản nợ xấu… Sau đó, KDIC và KAMCO sẽ bán lại cổ phần của các ngân hàng đã mua và bán các khoản nợ xấu hoặc tài sản thế chấp của khoản nợ xấu để thu hồi lại tiền đã hỗ trợ các NHTM.

Mặc dù, số tiền thu hồi được của KDIC và KAMCO sau khi bơm vốn hỗ trợ các tổ chức tài chính chỉ đạt trên 50% số tiền đã chi ra nhưng đã giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, xử lý nợ xấu các ngân hàng yếu kém và hạn chế tối đa tác động tiêu cực đối với hệ thống tài chính, ngân hàng và tình hình kinh tế – xã hội. Hơn 40% số tiền không thể thu hồi đã được xử lý theo hướng: 70% tổng số tiền không thu được chuyển thành nghĩa vụ nợ của Chính phủ (làm tăng nợ công của Hàn Quốc thêm 8% GDP) và được Chính phủ trả dần trong 25 năm; 30% còn lại được bù đắp bằng phụ phí 0,1% tăng thêm trong phí bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tài chính kéo dài trong thời hạn 25 năm.

Bên cạnh việc hỗ trợ về nguồn lực tài chính, Chính phủ Hàn Quốc cũng áp dụng thêm nhiều biện pháp hỗ trợ khác, như: (i) thành lập các cơ quan hỗ trợ tái cơ cấu doanh nghiệp, (ii) thực thi các chính sách hỗ trợ về thuế cho các tổ chức, cá nhân liên quan tham gia thị trường mua bán nợ xấu, thị trường chứng khoán… Các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng cũng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với thông lệ chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao khả năng chịu đựng rủi ro của các ngân hàng. Tăng cường vai trò của FSS trong việc thanh tra, kiểm tra,

giám sát, cảnh báo và yêu cầu chấn chỉnh hoạt động đối với hệ thống ngân hàng tài nói chung và các NHTM nói riêng.

e. Về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền: Hàn Quốc quy định mức chi trả bảo hiểm tiền gửi cụ thể (50 triệu won/người gửi tiền), tuy nhiên, khi cần thiết (ví dụ giai đoạn khủng hoảng 1997 – 1998), Hàn Quốc tuyên bố Chính phủ đảm bảo chi trả đủ 100% tiền gửi cho người gửi tiền tại các ngân hàng. Đây là giải pháp tình thế cần thiết để trấn an người dân và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, kinh tế, xã hội. Thực tế, Chính phủ nước này chưa phải thực hiện cam kết này do chưa để ngân hàng nào phải áp dụng biện pháp phá sản.

2.5.3. Nhật Bản:

Mặc dù cải cách hệ thống kinh tế nói chung của Nhật Bản vào đầu thập niên 1990 bị nhiều nhà quan sát đánh giá là tương đối chậm và kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng tăng trưởng kinh tế trì trệ trong suốt hai thập niên sau đó. Tuy nhiên, giới nghiên cứu quốc tế và tại Nhật Bản đều đánh giá rằng, trong tổng thể bức tranh cải cách kinh tế còn hạn chế đó, Nhật Bản đã đạt được những thành công nhất định trong quá trình tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng của nước này, đặc biệt là xử lý cơ bản, toàn diện vấn đề sở hữu chéo, vốn được xem là một trong những đặc điểm cố hữu và nghiêm trong của nền kinh tế nước này trước đó.

Cụ thể, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện một số biện pháp thành công nhằm giảm tình trạng sở hữu chéo từ rất sớm. Năm 1947, Chính phủ Nhật Bản ban hành Luật Chống độc quyền, theo đó, các công ty phi tài chính không được sở hữu cổ phần trong công ty khác, và công ty tài chính bị giới hạn không được sở hữu quá 5% cổ phần của công ty khác. Quy định này khiến cho cơ cấu sở hữu chứng khoán trên thị trường thay đổi rõ rệt: tỷ lệ cá nhân nắm giữ cổ phiếu tăng gấp đôi trong giai đoạn 1945-1949, trong khi các doanh nghiệp phải thoái vốn và chỉ còn nắm giữ chưa tới 6% cổ phiếu từ tỷ lệ 51,9% trước đó. Đầu thập niên 90s, những quy định về an toàn vốn và việc áp dụng nguyên tắc kế toán thị trường trong việc định giá cổ phiếu cũng là những nguyên nhân dẫn tới sự thoái trào của sở hữu chéo.

Từ tháng 4/2001, Chính phủ tiếp tục ban hành các quy định mới về giới hạn nắm giữ cổ phần vốn tự có cấp 1 trong gói cứu trợ kinh tế cấp bách. Tiếp đó Luật giới hạn sở hữu cổ phiếu cũng bắt đầu có hiệu lực vào tháng 9/2001 với mục tiêu

xử lý triệt để tình trạng sở hữu chéo với mục tiêu hoàn thành vào tháng 9/2004. Theo đó các ngân hàng nắm giữ cổ phiếu vượt quá 1.5 lần vốn tự có cấp 1 được yêu cầu phải bán bớt lượng cổ phiếu tới 10 triệu yên. Tuy nhiên việc yêu cầu các ngân hàng bán một lượng lớn cổ phiếu có thể gây rất nhiều vấn đề như các ngân hàng sẽ ngần ngại không bán cổ phiếu của các doanh nghiệp đã có mối quan hệ kinh doanh thân thiết từ lâu hoặc nếu như ngân hàng sẵn sàng bán thì Chính phủ Nhật cũng lo ngại với lượng bán lớn ồ ạt này sẽ làm giá cổ phiếu giảm mạnh từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường chứng khoán nói chung và nền kinh tế nói riêng. Chính vì vậy, tháng 11/2001, Chính phủ ban hành một đạo luật yêu cầu các ngân hàng phải bán bớt lượng cổ phiếu đang sở hữu, bao gồm cả các cổ phiếu do người có liên quan phát hành (cổ phiếu thuộc nhóm sở hữu chéo), bảo đảm tổng giá trị cổ phiếu trong danh mục đầu tư không vượt quá vốn tự có cấp 1 và quá trình diễn ra trong vòng bốn năm cho tới tháng 9/2006.

Chính phủ Nhật Bản cũng khuyến khích thành lập các quỹ ETF và các quỹ đầu tư bất động sản từ năm 2002, thực chất là để chứng khoán hóa các tài sản (nợ xấu và sở hữu chéo) trong hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp nói chung. Để thúc đẩy quá trình thanh lý cổ phần thông qua bán cổ phiếu nắm giữ bởi các ngân hàng cũng như ngăn chặn đà bán tháo cổ phần ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập một tổ chức đặc biệt vào ngày 30/01/2002 là công ty mua bán cổ phiếu ngân hàng (BSPC) để mua lại cổ phiếu nắm giữ bởi các ngân hàng và doanh nghiệp.

Tháng 5/2002, nhằm ngăn chặn một đợt giảm giá cổ phiếu khác, NHTW Nhật Bản (BoJ) đã hỗ trợ thêm các ngân hàng giảm cổ phần thông qua kế hoạch mua cổ phiếu với tổng giá trị lên tới 2 triệu Yên (tức 16.3 tỷ đô la Mỹ) đến hết 9/2003 và giữ lượng cổ phiếu này đến hết tháng 9/2007. Sau đó, BOJ lại nâng mức trần mua lên tới 3 triệu Yên và mở rộng thời gian mua tới cuối tháng 9/2004. Đồng thời giữa năm 2002 và 2006, BoJ cũng phối hợp với BSPC mua

3.8 triệu yên cổ phiếu từ các ngân hàng và đến năm 2007, toàn bộ lượng cổ phiếu này bắt đầu được bán ra thị trường.

Bộ Luật Thương Mại của Nhật Bản cũng có những sửa đổi trong đó xóa bỏ quy định cũ về việc cấm mua lại cổ phiếu của chính công ty và cho phép các doanh nghiệp từ đây được phép mua lại cổ phần đã bán. Biện pháp này tạo ra một cơ chế

hữu hiệu trong việc hấp thụ lượng cổ phần lớn do các ngân hàng bán tháo. Việc mua lại cổ phần trong bối cảnh này cũng cho phép các doanh nghiệp tự chủ mối quan hệ kinh doanh, thực hiện tái cơ cấu hoặc hình thành nên các mối liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác. Hộp 1 dưới đây chỉ ra những thay đổi pháp lý nhằm hợp pháp hóa việc mua lại cổ phiếu tại Nhật Bản. Tính đến tháng 6/2002, có tới 822 công ty niêm yết đã thực hiện việc mua lại cổ phần của chính công ty mình với tổng giá trị lên tới 3,1 triệu Yên. Các nhà phân tích chính sách (như của Kuroki, 2003) cho rằng chính lượng lớn cổ phiếu này đã được sở hữu bởi các ngân hàng trước đây theo những thỏa thuận ngầm giữa hai bên nhằm phục vụ lợi ích cho mình.


Hộp 1.:Các Luật liên quan quy định về hoạt động mua lại cổ phiếu tại Nhật Bản


Tháng 10/1994: Sửa đổi Luật Thương mại: Thông qua nghị quyết của cuộc họp hội đồng cổ đông phổ thông, các doanh nghiệp có thể giới thiệu các chương trình mua lại cổ phiếu trong đó nguồn tài chính lấy từ lợi nhuận.

Tháng 11/1995: Luật Thuế đặc biệt: Tạm thời miễn thuế đối với cổ tức nhận được từ cổ phiếu mua lại (cho đến hết năm tài chính 1998)

Tháng 6/1997: Sửa đổi Luật Thương mại: Các công ty được quy định có thể cho phép ban lãnh đạo mua lại cổ phiếu.

Tháng 3/1998: Sửa đổi Luật Thương mại: Nguồn tài chính dùng để mua lại cổ phiếu được mở rộng sang quỹ dự trữ vốn cổ phần.

Trong khi giải pháp này mang lại hiệu quả trong ngắn hạn thì trong dài hạn nó chưa hẳn là biện pháp tốt. Bởi rõ ràng việc giảm số lượng cổ phiếu của công ty hàm ý tăng tài sản khác còn mua lại cổ phiếu của chính mình tức giảm tài sản khác. Hơn nữa, các ngân hàng cũng có thể miễn cưỡng bán cổ phần do việc này làm tổn hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa ngân hàng với các doanh nghiệp thông qua bảo lãnh. Một vấn đề nữa liên quan đến các doanh nghiệp nhỏ nếu mua lại cổ phần của chính mình đó là các doanh nghiệp này sẽ không đủ điều kiện để niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hầu hết các nước đều quy định một doanh nghiệp phải có số lượng cổ đông tối thiểu theo quy định cũng như có cổ đông lớn nhất nắm giữ phần lớn cổ phần nên việc mua lại cổ phần sẽ làm giảm số lượng cổ đông và tăng khả năng hủy niêm yết.

Ngoài ra, những gợi ý chính sách của Keidanren (2003) [42] cũng có tác động tích cực nhằm giảm tình trạng sở hữu chéo. Chẳng hạn nếu ban lãnh đạo của các công ty đại chúng quyết định mua lại cổ phần thì những chứng khoán mà được nắm giữ chồng chéo trong ít nhất 5 năm sẽ được ưu tiên giao dịch trực tiếp với mức giá thị trường. Nhưu vậy, có thể nói, nhờ có một loạt những giải pháp đồng bộ mà các ngân hàng và doanh nghiệp Nhật đã bán được một lượng lớn cổ phiếu với tỷ lệ lên tới 40% vào năm 2001.

Kinh nghiệm từ Nhật cũng chỉ ra rằng việc ngân hàng quyết định bán cổ phần nào không chỉ phụ thuộc vào danh mục đầu tư mà còn mối quan hệ dài hạn với các doanh nghiệp. Theo đó, sau cuộc khủng hoảng ngân hàng đặc biệt sau năm 1999, các ngân hàng Nhật Bản đã giảm mạnh tỷ lệ sở hữu bằng việc bán một lượng lớn cổ phiếu có tính lỏng và kỳ vọng lợi nhuận cao (tức những cổ phiếu dễ dàng bán) trong khi giữ lại cổ phiếu của các doanh nghiệp mà họ đã có mối quan hệ gắn bó lâu dài. Do đó hành vi của các ngân hàng thể hiện thái độ chống đối và điều này không chỉ làm xói mòn công tác quản trị mà còn làm giảm giá trị danh mục đầu tư của chính ngân hàng.

Sở hữu chéo tại Nhật đã giảm trong suốt những năm 1990, đây cũng là thời điểm mà Chính phủ bãi bỏ rất nhiều quy định đối với thị trường tài chính dẫn đến chi phí kiểm soát doanh nghiệp giảm đáng kể. Một trong số đó phải kể đến quy định tự do hóa hoạt động ủy thác giao dịch chứng khoán. Sự thông thoáng trong quy định về ủy thác đầu tư này đã làm giảm mạnh chi phí trong các thương vụ thôn tính và tạo điều kiện cho các cổ đông bên ngoài có thể dễ dàng có quyền kiểm soát thông qua thị trường tài chính. Và chính vào thời điểm khi chi phí này ở mức rất thấp như vậy (chi phí của một vụ thôn tính nhỏ hơn nhiều so với giá trị của vụ thôn tính) lãnh đạo các tập đoàn, doanh nghiệp đã đồng loạt muốn giảm tình trạng sở hữu chéo nhằm bảo tồn vị trí của mình. Lý do là khi sở hữu chéo không còn tức ban lãnh đạo cam kết sẽ không thu lợi trên tài sản của các cổ đông, điều này làm giảm giá trị quyền kiểm soát và do đó sẽ không có thượng vụ thôn tính nào có khả năng xảy ra nữa và họ có thể bảo vệ vị trí của mình. Nói cách khác, chi phí thôn tính càng nhỏ thì sở hữu chéo sẽ càng được giảm thiểu.

2.5.3. Các nước ASEAN:

Với nhiều điểm tương đồng về vị trí địa lý và sự phát triển kinh tế, những kinh nghiệm quý giá của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hữu ích với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng các nước ASEAN cũng có nhiềm điểm tương đồng với Trung Quốc, đặc biệt là trong việc hình thành các AMCs.

Trong một nghiên cứu của John Hawkins (1999) [85], chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của ba quốc gia Thái Lan, In-đô-nê-xia và Ma-lai-xia hậu khủng hoảng 1997 đã được phân tích và so sánh. Theo John Hawkins (1999), các chính sách phản ứng lại cuộc suy thoái có một số điểm tương đồng, ví dụ như cả ba quốc gia đều thành lập những công ty quản lý nợ xấu hay đều có kế hoạch bơm tiền của chính phủ vào các ngân hàng. Sự khác nhau giữa các chính sách này chủ yếu ở ba phương diện: mức độ nghiêm trọng của các vấn đề (Hệ thống ngân hàng của In-đô-nê-xia chịu ảnh hưởng mạnh hơn hai quốc gia còn lại); các yếu tố về chính trị; và cấu trúc của hệ thống ngân hàng. Các hoạt động tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đối với mỗi quốc gia được John Hawkins (1999) phân tích cụ thể trên từng khía cạnh như sau:

(i) Tổ chức dẫn dắt quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Tại Thái Lan, Ủy ban Tư vấn Tái cấu trúc Tài chính được thành lập với chức năng tư vấn toàn bộ quá trình và ban hành các văn bản hướng dẫn. Đứng đầu Ủy ban này là nguyên Thứ trưởng bộ tài chính, cùng đại diện từ Ngân hàng trung ương Thái Lan (BoT), Bộ Tài chính, và lĩnh vực tư nhân. Tại Ma-lai-xia, Ngân hàng Negara Ma-lai-xia (BNM) giữ vai trò dẫn dắt. Tại In-đô-nê-xia, chương trình tái cấu trúc được dẫn dắt bởi Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng In-đô-nê-xia (IBRA). IBRA đã tổ chức những cuộc thảo luận với năm đảng chính trị chính trước cuộc bầu cử gần đây và bảo đảm sự thống nhất giữa các đảng này về chương trình tái cấu trúc.

(ii) Sự thay đổi về các quy định: Ma-lai-xia đã thắt chặt hơn một số quy định: Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho nợ đã được tăng từ 1 lên 1,5% tổng dư nợ. Các yêu cầu bắt buộc về vốn phải đạt theo định kỳ hàng quý thay vì hàng năm. Ngoài ra các ngân hàng cũng phải công bố phân loại, tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ nợ xấu sáu tuần sau khi kết thúc mỗi quý. Việc mở thêm các chi nhánh cũng phải được sự chấp thuận của BNM. Thái Lan lại công bố nới lỏng các yêu cầu bắt buộc về vốn. Các

khoản nợ đã được tái cơ cấu được phân loại là nợ tốt. Cuối cùng, những sửa đổi về luật Ngân hàng của In-đô-nê-xia đã tạo trách nhiệm cho ngân hàng Trung ương được cấp phép, quy định và giám sát các ngân hàng. NHTW In-đô-nê-xia (BI) đã ban hành các quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Một luật mới về ngân hàng trung ương đã được thông qua vào tháng 4 năm 1999 tạo ra cho BI sự độc lập nhiều hơn nhưng lại bị giới hạn cho vay các ngân hàng. Từ năm 2000, chức năng giám sát các ngân hàng đã được chuẩn cho một tổ chức mới.

(iii) Xử lý nợ xấu: Các công ty quản lý tài sản (AMCs) đã được thành lập ở cả ba nền kinh tế, mặc dù các công ty này có chiến lược khác nhau. Công ty AMC của Thái Lan dường như có xu hướng bán nợ và các tài sản đảm bảo nhanh chóng trong khi Ma-lai-xia lại có chiến thuật quản lý các khoản nợ một thời gian trước khi từ từ bán các khoản nợ này. AMC đầu tiên ở Thái Lan là Tổng công ty quản lý tài sản, mua các khoản nợ có tài sản đảm bảo từ những dự án tài sản đã được phát triển từ các tổ chức tài chính với mục tiêu cải thiện giá trị của những khoản nợ đó thông qua sự quản lý cẩn thận. Công ty mua các khoản nợ với giá trị thị trường bởi ba nhà định giá độc lập. Ma-lai-xia thành lập một công ty đại chúng được sở hữu bởi Bộ Tài chính tên là Danaharta vào tháng 6 năm 1998 với các mục tiêu là: “mua lại, quản lý, tài trợ, và xử lý các tài sản cùng các khoản nợ”. Thể chế tạo ra cho Danaharta hai quyền lực đặc biệt: Quyền lực đầu tiên của đạo luật là "trao quyền theo luật định", mà về cơ bản cho phép Danaharta mua một khoản vay bằng cách đứng trên vị trí của người bán là tổ chức tài chính. Quyền lực thứ hai là "Bổ nhiệm một quản trị đặc biệt" của Danaharta đối với một doanh nghiệp đi vay, hoặc một công ty con, hoặc một nhà cung cấp an ninh, hoặc một công ty có cổ phiếu được tính vào Danaharta nếu người vay không thể trả nợ. Có hai động lực chính để các ngân hàng bán nợ xấu cho Danaharta: Một là, nếu khoản nợ hoặc tài sản đảm bảo được bán với giá cao hơn giá Danaharta đã trả, 80% phần dư ra sẽ được quay trở lại ngân hàng. Hai là, các ngân hàng sẽ được khấu trừ phần lỗ hoặc các khoản nợ đã bán cho Danaharta trong vòng 5 năm. Tại In-đô-nê-xia, Đơn vị Quản lý Tài sản là một bộ phận của Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng In-đô-nê-xia (IBRA). IBRA sẽ nắm quyền quản lý các ngân hàng yếu kém.

(iv) Sáp nhập và mua lại: Vào tháng 9 năm 1998, chính quyền tại In-đô-nê- xia công bố bốn ngân hàng nhà nước sẽ bị sáp nhập thành ngân hàng mới là

Ngân hàng Mandiri. Các khoản nợ xấu của bốn ngân hàng này sẽ được chuyển cho IBRA xử lý. Ở Ma-lai-xia, chính phủ công bố kế hoạch cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính của quốc gia sáp nhập thành sáu nhóm lớn vào tháng 9 năm 1999. Sự mua lại bởi các ngân hàng nước ngoài trở nên được ưa chuộng hơn tại In-đô-nê-xia và Thái Lan kể từ khi cuộc khủng hoảng diễn ra. Các sửa đổi về thể chế tại In-đô-nê-xia chấp nhận sự sở hữu phần lớn bởi nước ngoài. Ở Thái Lan, các ngân hàng nước ngoài chỉ được nắm giữ phần lớn cổ phần của các ngân hàng nội địa trong vòng 10 năm. Ngược lại, Ma-lai-xia vẫn duy trì tỷ lệ giới hạn 30% cho sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng.

(v) Các chương trình tái cấu trúc vốn: Cả ba nền kinh tế đều có các kế hoạch hỗ trợ tái cấu trúc vốn cho hệ thống ngân hàng. Chương trình tái cấu trúc vốn của Thái Lan được diễn ra dưới sự bảo trợ của Quỹ phát triển các tổ chức tài chính (FIDF). FIDF được thành lập năm 1985 để cung cấp các hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng gặp khó khăn. Chính phủ đã phát hành 500 tỷ THB bằng trái phiếu để chi trả cho các khoản nợ của FIDF. Tại Ma-lai-xia, Danamodal được thành lập vào tháng 8 năm 1998 dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn và là công ty con của BNM. Danamodal đã kêu gọi thêm vốn thông qua việc phát hành trái phiếu MYR. Kế hoạch của Danamodal là hoạt động trong vòng 5 năm, tái cấu trúc các ngân hàng trong hai năm đầu tiên và giảm cổ phần trong ba năm tiếp theo. Ở In-đô-nê-xia, các ngân hàng được chia thành 3 nhóm: Nhóm 1 là 74 ngân hàng hoạt động tốt với tỷ lệ vốn là 40%; Nhóm 2 là 9 ngân hàng được tái cơ cấu với tỷ lệ vốn từ 25 đến 40%; Nhóm 3 là 21 ngân hàng yếu kém, có tỷ lệ vốn dưới 25%, sẽ bị đóng cửa và Ngân hàng In-đô-nê-xia sẽ chi trả các khoản tiền gửi. 8 trong 9 ngân hàng nhóm 2 được nhận vốn từ chính phủ và các cổ đông của những ngân hàng này cũng được yêu cầu bơm thêm vốn vào ngân hàng. Nợ xấu được chuyển giao cho đơn vị quản lý tài sản của IBRA.

Với những mô hình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mỗi quốc gia đều đạt được những mục tiêu nhất định, trong đó Ma-lai-xia được coi là quốc gia thành công nhất trong quá trình tái cơ cấu. Đặc biệt, thành công của công ty quản lý tài sản Danaharta của Ma-lai-xia về xử lý nợ xấu đã trở thành một bài học kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia học hỏi và áp dụng trong những cuộc suy thoái và khủng hoảng tài chính sau này, trong đó có Việt Nam.


CHƯƠNG 3:

THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC‌

3.1. Tổng quan quá trình cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc

3.1.1. Bối cảnh chính trị, kinh tế

Bối cảnh chính trị, kinh tế Trung Quốc trong quá trình mở cửa và hội nhập của nước này được nhiều chuyên gia đánh giá là nguyên nhân chính thúc đẩy công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc thời gian qua [132]. Từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 (cuối năm 1978), Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách mở cửa với tinh thần “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị và tiến cùng thời đại”. Nhờ vậy, Trung Quốc đã duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh liên tục, sức mạnh tổng hợp quốc gia được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc tế được nâng cao. Vì cải cách mở cửa là một sự nghiệp chưa có tiền lệ và cũng chưa được đề cập nhiều trong các trước tác kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nên Trung Quốc phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm theo phương thức “dò đá qua sông”.

Quá trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 (1978) đến nay có thể chia làm 4 giai đoạn: (i) Giai đoạn 1978-1991: cải cách được tiến hành vẫn trong khuôn khổ của thế chế kinh tế kế hoạch truyền thống, mở đầu từ nông thôn bằng việc khoán sản phẩm đến hộ gia đình và thí điểm mô

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí