(Nguồn: Tự tổng hợp từ Stata 14)
Kết quả trên bảng kết quả hồi quy cho thấy các biến có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng và có ý nghĩa thống kê gồm cả yếu tố nội tại ngân hàng và yếu tố vĩ mô ngân hàng, trong đó yếu tố nội tại ngân hàng gồm tỷ lệ nợ xấu năm trước (L.NPL), dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), thu nhập ngoài lãi (NII), kém hiệu quả chi phí hoạt động (EFF) và qui mô ngân hàng (SIZE) và yếu tố vĩ mô gồm tăng trưởng GDP, thất nghiệp và tỷ giá hối đoái, cụ thể như sau:
- Tỷ lệ nợ xấu năm trước tác động ngược chiều lên tỷ lệ nợ xấu năm hiện tại với mức ý nghĩa 1%. Kết quả này thì khác với kỳ vọng của tác giả và các nghiên cứu trước.
- Dự phòng rủi ro tín dụng tác động mạnh nhất và cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu với mức ý nghĩa 1%.
- Thu nhập ngoài lãi tác động ít đến tỷ lệ nợ xấu và ngược chiều với mức ý nghĩa 1%. Kết quả này cũng khác với giả thuyết và kỳ vọng của tác giả, cũng khác với các nghiên cứu trước đây.
- Kém hiệu quả chi phí tác động ít đến tỷ lệ nợ xấu và cùng chiều với mức ý nghĩa 1%.
Có thể bạn quan tâm!
-
Tiêu Chí Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại
-
Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Nhóm Yếu Tố Kinh Tế Vĩ Mô Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng
-
Phân Tích Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm Việt Nam
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 10
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 11
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
- Quy mô ngân hàng tác động ít lên tỷ lệ nợ xấu và ngược chiều với mức ý nghĩa 1%. Kết quả này thì khác với giả thuyết và kỳ vọng của tác giả, nhưng giống với kết quả nghiên cứu của Salas and Saurina (2002).
- Tăng trưởng GDP tác động khá mạnh đến tỷ lệ nợ xấu và ngược chiều với mức ý nghĩa 1%.
- Tỷ lệ thất nghiệp tác động mạnh đến tỷ lệ nợ xấu và ngược chiều với mức ý nghĩa 1%. Đây là kết quả khác với giả thuyết, kỳ vọng của tác giả và cũng khác với các nghiên cứu trước.
- Tỷ giá hối đoái tác động rất ít, có thể nói là không đáng kể và cùng chiều đến rủi ro tín dụng với mức ý nghĩa 1%.
Bảng kết quả hồi quy cũng cho thấy đòn bẩy, lạm phát, lợi nhuận có tác động rất ít và cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu nhưng chưa tìm thấy ý nghĩa thống kê. Các kết quả
hồi quy sẽ được tác giả phân tích và giải thích rõ trong phần kết luận tại chương 5 của luận văn.
Kết luận chương 4
Mô hình hồi quy đã cho kết quả cả các yếu tố kinh tế vĩ mô và yếu tố nội tại ngân hàng đều có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam.Trong đó, các biến tìm thấy có ý nghĩa thống kê và có tác động mạnh nhất đến rủi ro tín dụng là dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), thất nghiệp (UNR) và tỷ lệ nợ xấu năm trước (L.NPL). Ngoài ra, có một số kết quả tìm thấy của một số biến tuy không như kỳ vọng của tác giả nhưng có thể giải thích khi đặt trong tình huống của các NHTM Việt Nam và sẽ được tác giả giải thích trong chương 5.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
5.1 Kết luận
Biến nội tại ngân hàng
- Tỷ lệ nợ xấu năm trước (L.NPL) thực sự ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của năm hiện tại với mức ý nghĩa thống kê 1%. Kết quả hồi quy cho thấy nếu ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu năm trước cao hơn 1% thì năm sau sẽ giảm 0.2205155%. Điều này theo tác giả là hợp lý ở Việt Nam khi các NHTM Việt Nam có tỷ lệ xấu cao ở năm trước thì năm sau cần giảm xuống để tránh rơi vào nhóm các ngân hàng cần kiểm soát của NHNN vì có tỷ lệ nợ xấu cao quá quy định.
- Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP) tác động cùng chiều đến rủi ro tín dụng với mức ý nghĩa thống kê 1% và hệ số ảnh hưởng lên đến 2.871037, nghĩa là khi dự phòng rủi ro của ngân hàng tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu tăng đến 2.87%. Dự phòng rủi ro tín dụng tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu thì giống với kết quả nghiên cứu của Hasna Chaibi và Zied Ftiti, khi mà nợ xấu tăng thì trích lập dự phòng cũng tăng cao.
- Sự kém hiệu quả (EFF) có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu với mức ý nghĩa 1%. Khi kém hiệu quả tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu tăng xấp xỉ 0.0179335%. Kết quả này thì phù hợp vì khi quản lý kém hiệu quả đã làm tăng chi phí, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và do vậy dẫn đến nợ xấu nhiều hơn.
- Thu nhập ngoài lãi (NII) có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu với mức ý nghĩa 1%. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi thu nhập ngoài lãi tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu tăng 0.0116658%. Thu nhập ngoài lãi tăng làm tăng tỷ lệ nợ xấu thì trái với lý luận cho rằng thu nhập ngoài lãi cao làm giảm áp lực lên thu nhập từ tín dụng và từ đó làm giảm rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, với tình huống của các NHTM Việt Nam thì tác giả lý giải rằng trước áp lực phải đạt lợi nhuận cao trong khi quy mô và tăng trưởng tín dụng bị giới hạn bởi quy định của NHNN thì các ngân hàng đã cố gắng tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi vay, tuy nhiên do quản lý chi phí hoạt động chưa
hiệu quả nên khi tăng thu nhập ngoài lãi vay lại làm tăng chi phí hoạt động nhiều hơn và do vậy dẫn đến nợ xấu nhiều hơn.
- Quy mô ngân hàng (SIZE) được tìm thấy có tác động ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu với mức ý nghĩa 1%. Điều này thì không giống với kỳ vọng của tác giả khi kết quả hồi quy hàm ý rằng khi quy mô ngân hàng tăng lên thì rủi ro tín dụng lại giảm xuống. Để giải thích cho kết quả này thì tác giả cho rằng đã có sự tăng trưởng quy mô tại các NHTM Việt Nam theo yêu cầu của NHNN, nhưng đồng thời NHNN cũng đã kiềm chế thành công việc tăng trưởng tín dụng mà không đi kèm với chất lượng tín dụng nên đã không làm tăng rủi ro tín dụng do tăng quy mô tại các NHTM Việt Nam. Mặt khác, khi tăng quy mô thì các ngân hàng cũng cần tăng lợi nhuận và các ngân hàng đã thực hiện mục tiêu này bằng cách tăng thu nhập từ các hoạt động ngoài tín dụng nên đã làm giảm áp lực lên tín dụng và do vậy làm giảm rủi ro tín dụng.
Bảng kết quả hồi quy cũng cho thấy các biến Đòn bẩy (LEV) và Lợi nhuận (ROE) có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu, tuy nhiên nghiên cứu chưa tìm thấy ý nghĩa thống kê cho sự tác động của hai yếu tố này đến rủi ro tín dụng. Tác động cùng chiều của LEV giống với kỳ vọng của tác giả vì khi ngân hàng sử dụng đòn bẩy nhiều hơn thì áp lực tìm kiếm lợi nhuận sẽ tăng lên và do vậy ngân hàng có thể sẽ chấp nhận các khoản vay có rủi ro cao hơn, khi đó rủi ro tín dụng sẽ tăng lên. Còn tác động cùng chiều của ROE đến tỷ lệ nợ xấu thì khác với giả thuyết, kỳ vọng của tác giả và các nghiên cứu trước đây, nhưng có thể giải thích là tại Việt Nam, trong giai đoạn nghiên cứu, có một khoảng thời gian khi lợi nhuận của các ngân hàng tăng cao, nợ xấu cũng cao nhưng lại không được các ngân hàng trích lập dự phòng đẩy đủ nên lợi nhuận tăng và nợ xấu cũng tăng.
Biến kinh tế vĩ mô
- Tăng trưởng GDP (GGDP) có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu với mức ý nghĩa thống kê 5%. Kết quả hồi quy cho thấy khi tăng trưởng GDP tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm xấp xỉ 0.1898266%. Tác động ngược chiều giữa hai biến này theo tác giả là hoàn toàn phù hợp vì khi nền kinh tế tăng trưởng tốt sẽ làm hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp tốt lên và thu nhập người đi vay cũng tăng lên, do đó làm tăng khả năng trả nợ và làm giảm tỷ lệ nợ xấu.
- Thất nghiệp (UNR) có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu với mức ý nghĩa 1% và kết quả hồi quy cho thấy khi thấy nghiệp tăng lên 1% thì rủi ro tín dụng giảm xuống 1.006097%. Giải thích cho kết quả hồi quy này, tác giả cho rằng trong giai đoạn nghiên cứu, tỷ lệ thất nghiệp tăng do sự gia tăng thất nghiệp ở các lĩnh vực có rủi ro cao (chứng khoán và bất động sản) nhất là ở thời gian khi các thị trường này đóng băng nên tỷ lệ thất nghiệp tăng trong trường hợp này lại có tác động tốt đến nợ xấu khi các thị trường nhiều rủi ro này thu hẹp thì tín dụng tập trung vào hai thị trường này cũng giảm sút, từ đó giúp làm giảm rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, tác giả nhận định rằng, tác động ngược chiều giữa thất nghiệp và tỷ lệ nợ xấu chỉ xảy ra trong tình huống mà tín dụng tập trung rất lớn vào các lĩnh vực nhiều rủi ro, sau đó giảm đột ngột vì các thị trường rủi ro này bị thu hẹp do diễn biến bất lợi hoặc do yêu cầu của Nhà Nước.
- Tỷ giá hối đoái (EXR) và tỷ lệ nợ xấu có tác động cùng chiều với mức ý nghĩa 1%, nghĩa là khi tỷ giá hối đoái tăng lên cũng làm tăng rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng ở mức rất nhỏ là 0.00000228 cho thấy sự ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến tỷ lệ nợ xấu là không đáng kể.
Ngoài ra, kết quả hồi quy cũng cho thấy tỷ lệ lạm phát (INF) có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu, giống như giả thuyết và kỳ vọng của tác giả cũng như các nghiên cứu trước, tuy nhiên lại chưa tìm thấy ý nghĩa thống kê giữa hai biến này.
5.2 Gợi ý giải pháp
Kết quả mô hình hồi quy đã cho thấy các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô và yếu tố nội tại ngân hàng, trong đó yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến rủi ro tín dụng là dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), tỷ lệ thất nghiệp (UNR), tỷ lệ nợ xấu năm trước (L.NPL) và tăng trưởng GDP (GGDP). Ngoài ra, còn 5 yếu tố khác cũng tìm thấy có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng và có ý nghĩa thống kê là tỷ giá hối đoái (EXR), sự kém hiệu quả (EFF), thu nhập ngoài lãi (NII) và qui mô (SIZE), nhưng vì mức độ ảnh hưởng của
các yếu tố này đến rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam thấp nên gợi ý giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng, tác giả sẽ tập trung vào các giải pháp nhằm tác động đến 4 yếu tố có ảnh hưởng mạnh đến rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam. Tác giả gợi ý các giải pháp như sau:
Yếu tố dự phòng rủi ro tín dụng (LLP) được tìm thấy có tác động cùng chiều đến rủi ro tín dụng, nghĩa là nếu trích lập dự phòng giảm thì rủi ro tín dụng cũng giảm. Để làm giảm trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chính là cần thiết làm tăng chất lượng tín dụng. Khi chất lượng tín dụng tăng sẽ tác động đến yếu tố tỷ lệ nợ xấu năm trước (L.NPL) diễn biến theo hướng có lợi vì khi chất lượng tín dụng tốt thì sẽ không làm tăng tỷ lệ nợ xấu mỗi năm nên năm sau các ngân hàng sẽ không phải tìm cách để làm giảm nợ xấu của năm trước. Một số giải pháp tác giả gợi ý nhằm làm tăng chất lượng tín dụng như sau:
* Đối với NHNN
Cần phải hạn chế rủi ro tín dụng ngay từ đầu, tránh trường hợp do thiếu quan tâm và thiếu sự giám sát chặt chẽ để đến khi rủi ro tín dụng phát sinh (như trong những năm 2011 – 2012) mới quan tâm và tìm cách xử lý sẽ tốn rất nhiều thời gian, công sức và thậm chí có thể gặp các tình huống không thể xử lý được. Để thực hiện, NHNN cần:
- Hoàn thiện bộ máy giám sát rủi ro hoạt động của NHTM trên cơ sơ hình thành một bộ phận độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro, có chức năng quản lý, giám sát rủi ro cho các NHTM; nhận diện và phát hiện rủi ro; phân tích và đánh giá các mức độ rủi ro trên cơ sở các chỉ tiêu, tiêu thức được xây dựng đồng thời đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn giảm thiểu rủi ro tín dụng.
- Xây dựng được hệ thống thông tin trực tuyến kết nối dữ liệu của các ngân hàng với dữ liệu của ngân hàng nhà nước. Thông qua hệ thống này, NHNN có thể biết được ngân hàng nào có dấu hiệu bất thường thì sẽ tổ thức thanh tra, giám sát đột xuất và có hành động can thiệp kịp thời với ngân hàng ấy. Nếu phát hiện sai phạm phải xử lý nghiêm minh. Hiện nay, việc cập nhật thông tin vào hệ thống thông tin của NHNN phần lớn là do các ngân hàng gửi báo cáo, sau đó NHNN sẽ cập nhật
vào hệ thống. Việc cập nhật tay như thế này thường chậm và dễ sai lệch thông tin nên NHNN sẽ khó phát hiện các tình huống có vấn đề để có hành động can thiệp kịp thời.
- Xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng trực tuyến cho toàn bộ khách hàng của toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo đó, NHNN sẽ đóng vai trò trung tâm, khi dữ liệu được cập nhật tại một ngân hàng thì cũng sẽ được cập nhật ngay vào hệ thống thông tin của ngân hàng nhà nước. Hiện nay, việc chấm điểm xếp hạng tín dụng của khách hàng mặc dù được tuân thủ theo tiêu chí của NHNN nhưng việc thực hiện do từng ngân hàng tự thực hiện, chưa có hệ thống số liệu cập nhật chung trong toàn hệ thống ngân hàng. Vì vậy, việc chấm điểm này còn mang tính chủ quan và chưa có tác động nhiều đến ý thức trả nợ của khách hàng.
* Đối với NHTM
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng (tức chất lượng tín dụng kém) xuất phát chủ yếu từ con người. Vì vậy giải pháp đầu tiên tác giả đề xuất nhằm làm tăng chất lượng tín dụng liên quan đến nguồn nhân lực. Cụ thể là NHTM cần phải có giải pháp về nguồn nhân lực, trước hết là các ngân hàng phải xây dựng và hoàn chỉnh được một quy chế tuyển dụng và tuân thủ nghiêm ngặt quy chế này, đồng thời trước khi thực hiện nghiệp vụ, các nhân viên cần được đào tạo cả về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, cụ thể:
+ Đào tạo tập trung để cung cấp kiến thức nền tảng.
+ Đào tạo tại chỗ: hướng dẫn thực hành công việc.
+ Tổ chức kiểm tra kiến thức chuyên môn nghiệp vụ định kỳ, đột xuất cho từng chức danh.
+ Tổ chức khóa huấn luyện về nghiệp vụ đạo đức cho các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cho các vị trí kiểm soát, quản lý và quản trị. Để đảm bảo việc tuân thủ qui định về đạo đức nghề nghiệp thì bên cạnh việc truyền thông, các NHTM cần quy định và thực thi chế tài (nên nghiêm khắc để có tác dụng răn đe) đối với các vi phạm liên quan đến đạo đức nghề nghiệp.