Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Pháp Luật Về Bảo Đảm An Toàn Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại


an toàn HĐNH là những quy định pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu vấn đề bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM một cách khoa học, chính xác hơn.

Một vấn đề cũng cần được làm sáng tỏ là đề tài luận án tiến sĩ mà tác giả đang nghiên cứu có điểm khác như thế nào so với hai luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Phạm Thanh Chung và tác giả Tạ Chương Lâm như vừa được đề cập ở trên?

Tuy tên đề tài có những nét tương đồng nhất định liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH, nhưng sự khác biệt trước hết về đối tượng được nghiên cứu: tác giả Phạm Thanh Chung xác định đối tượng nghiên cứu là pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các tổ chức tín dụng bao gồm các NH, tổ chức tín dụng phi NH và các loại hình TCTD khác; tác giả Tạ Chương Lâm xác định đối tượng nghiên cứu là pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH của các NHTM. HĐNH bao gồm ba hoạt động cơ bản nhất là huy động vốn, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Như vậy đối tượng nghiên cứu trong hai luận văn của các tác giả trên là rộng hơn so với đề tài luận án tác giả nghiên cứu. Vì vậy, tác giả đề tài luận án có cơ hội nghiên cứu sâu hơn về pháp luật bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Bên cạnh đó, nghiên cứu của hai tác giả nêu trên từ khá lâu (tác giả Phạm Thanh Chung bảo vệ năm 2005 và tác giả Tạ Chương Lâm bảo vệ năm 2009) trong bối cảnh Luật Ngân hàng nhà nước năm 1997 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 đang có hiệu lực. Nhưng đến nay, hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi so với thời điểm trước với sự ra đời của Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 và hàng loạt các văn bản mới có hiệu lực thì cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm an toàn trong HĐNH có nhiều thay đổi so với trước. Vì vậy đề tài luận án mà tác giả nghiên cứu có nhiều điểm mới hơn so với các đề tài tương tự trước đó.

Tóm lại, có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến khía cạnh bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Nội dung các nghiên cứu nêu trên tập trung vào các vấn đề như: quan niệm về an toàn trong HĐNH cũng như bảo đảm an toàn trong HĐNH. Tuy vậy, những quan niệm về an toàn và bảo đảm an toàn trong HĐNH cần tiếp tục phải nghiên cứu chi tiết hơn; một số công trình tiếp cận bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở các khía cạnh cụ thể như hội nhập quốc tế, an toàn và an ninh tài chính; một số công trình phân tích các khía cạnh bảo đảm an toàn trong HĐNH từ khá lâu, không bảo đảm tính cập nhật... Mặc dù vậy, các nghiên cứu nêu trên là những tài liệu quý báu cho tác giả luận án trong việc tiếp thu, chọn lọc và phát triển nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam.


1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại

Các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đến cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM cũng như nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về pháp luật bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM.

Cụ thể, tác giả Nguyễn Ngọc Lương, trong luận án tiến sĩ Luật học “Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”8, đã làm sáng tỏ những vấn đề chung về cấp tín dụng và pháp luật về HĐCTD của NHTM; thực trạng pháp luật về HĐCTD của NHTM ở Việt Nam; từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh HĐCTD của NHTM ở Việt Nam. Trong luận án này, tác giả Nguyễn Ngọc Lương đã làm rõ một số

vấn đề làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM như: khái niệm, đặc điểm, bản chất và nguyên tắc của HĐCTD của các NHTM; vai trò của HĐCTD của các NHTM trong nền kinh tế thị trường; những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh HĐCTD của NHTM. Đặc biệt, tác giả có phân tích pháp luật quy định về giới hạn an toàn trong HĐCTD của NHTM. Đây là nội dung có liên quan chặt chẽ đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, do mục đích, phạm vi và nội dung nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Lương tập trung vào các quy định của pháp luật điều chỉnh HĐCTD của các NHTM, vì vậy việc phân tích, đánh giá các quy định về an toàn trong HĐCTD của các NHTM mới chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng.

Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH thông qua việc phân tích vai trò, tác động cũng như mức độ điều chỉnh bằng pháp luật đối với sự an toàn trong HĐNH, hai giáo sư Jeroen Klomp và Jacob De Haan, trong tác phẩm: “Banking risk and regulation: does one size fit all?”9 (tạm dịch: rủi ro NH và sự điều chỉnh của pháp luật: liệu sự điều chỉnh có phù hợp với tất cả ngân hàng?), đã sử dụng dữ liệu từ hơn 200 ngân hàng từ 21 quốc gia trong Tổ chức Hợp tác và

Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 3

Phát triển kinh tế (tiếng Anh: Organization of Economic Co-operation and Development - OECD), trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2008, nhằm xem xét ảnh hưởng của các quy định pháp luật và giám sát NH đối với các rủi ro NH. Tác giả kết luận các quy định pháp luật và giám sát NH có sự ảnh hưởng nhiều đến những NH có rủi ro cao. Ngược lại, các quy định pháp luật và giám sát NH lại không có ảnh hưởng lớn đến những NH có rủi ro thấp.


8 Nguyễn Ngọc Lương (2017), Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

9 Jeroen Klomp, Jacob De Haan, “Banking risk and regulation: does one size fit all?” DNB Working Paper, 11/2011. Jeroen Klomp hiện đang công tác tại Trường Đại học Groningen, Hà Lan; Jacob De Haan là nhà nghiên

cứu về kinh tế ở Munich, Đức. Xem bài viết của các tác giả tại trang web: http://www.dnb.nl/binaries/Working%20Paper%20323_tcm46-261983.pdf.


Cùng với hướng nghiên cứu này, các giáo sư Abdelkader Boudriga, Neila Boulila Taktak và Sana Jellouli có bài viết “Banking supervision and nonperforming loan: a cross – country analysis”10 (tạm dịch: giám sát NH và nợ xấu: phân tích tại các quốc gia). Các tác giả của bài viết cho rằng: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cao và chính sách dự phòng rủi ro tốt sẽ làm giảm nợ xấu; cách thức hiệu quả nhất nhằm giảm nợ xấu đó là tăng cường hiệu quả của hệ thống pháp luật, tăng cường minh bạch thông tin và dân

chủ, tăng cường sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong HTNH, tăng cường sự lành mạnh của hệ thống tài chính NH ở mỗi quốc gia.

Hai tiến sĩ Tung-Hao Lee và Shu-Hwa Chih (Trường Đại học Quốc gia Chengchi, Đài Loan), trong bài viết “Does financial regulation affect the profit efficiency and risk of banks? Evidence from China’commercial banks”11 (tạm dịch: quy định về tài chính có ảnh hưởng đến hiệu quả lợi nhuận và rủi ro của NH?, minh chứng từ các NHTM Trung Quốc), đã xem xét những quy định mới về tiêu chuẩn an toàn của Ủy ban Giám sát NH Trung Quốc (tiếng Anh: China Banking Regulatory Commission - CBRC), đã phân tích ảnh hưởng của những quy định đó đối với hiệu

quả và rủi ro của NH Trung Quốc. Hai tác giả trên đã kết luận: tỷ lệ dự phòng rủi ro và tỷ lệ chi phí trên thu nhập chỉ phù hợp với các NH lớn, trong khi tỷ lệ cho vay so với tiền gửi, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ thanh khoản phù hợp với NH nhỏ. Cũng theo Tung-Hao Lee, tỷ lệ thanh khoản hiện thời không ảnh hưởng đến rủi ro và có thể dẫn đến những kết quả khác nhau về tính hiệu quả giữa NH lớn và NH nhỏ.

Cách tiếp cận khác, tiến sĩ George Hanc, trong bài viết “The future of banking in America, summary and conclusion”12 (tạm dịch: khái quát và những kết luận về tương lai HĐNH tại Hoa Kỳ), đã quan tâm nghiên cứu đến những thách thức của pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của những NH lớn, bởi lẽ các NH lớn thường có cơ cấu tổ chức phức tạp, hoạt động với phạm vi rộng bằng nhiều nghiệp vụ khác nhau, vì vậy rủi ro cũng cao hơn so với các NH nhỏ.

Nhìn chung, nội dung các công trình nghiên cứu nêu trên đều khẳng định vai trò không thể thiếu của pháp luật là một trong những phương tiện quan trọng nhất nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM.


10 Abdelkader Boudriga, Neila Boulila Taktak and Sana Jellouli, “Banking supervision and nonperforming loan: a cross – country analysis”, Journal of Financial Economic Policy, 4/2009. Abdelkader Boudriga là giáo sư ngành tài chính học tại Trường Đại học Cathage và giáo sư thỉnh giảng Trường Đại học Orleans, Pháp; Neila Boulila Taktak là giáo sư công tác tại Trường Đại học Tunis, Tunisia; còn Sana Jellouli đang giảng dạy tại Trường Electronic Commerce, Tunis, Tunisia.

11Tung-Hao Lee and Shu-Hwa Chih, “Does financial regulation affect the profit efficiency and risk of banks? Evidence from China’commercial banks” North American Journal of Economics and Finance, 2013.

12 George Hanc, “The future of banking in America, summary and conclusion”, FDIC Banking Review, 16, 2004. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Cơ quan Bảo hiểm và Nghiên cứu, Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Hoa Kỳ.


Một trong những vấn đề quan trọng khi nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH là mức độ điều chỉnh của pháp luật đến sự an toàn HĐNH. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyến, trong bài viết “Xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”13, đã cho rằng, Nhà nước chỉ can thiệp đến bảo đảm an toàn trong hoạt

động của các NHTM ở tầm vĩ mô, nghĩa là thông qua việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp, tạo cơ sở pháp lý an toàn và hiệu quả cho việc xây dựng và thực hiện hoạt động bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Đây là cách tiếp cận rất phù hợp trong giai đoạn hiện nay vì Nhà nước không cần can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và NH nói riêng. Điều quan trọng nhất là thông qua pháp luật, Nhà nước tạo lập hành lang pháp lý cho vận hành nền kinh tế nói chung, cho HĐNH cũng như bảo đảm an toàn HĐNH nói riêng.

Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung của pháp luật điều chỉnh HĐNH nói chung và bảo đảm an toàn trong HĐCTD nói riêng, giáo sư Roland Benediker, trong bài viết “European answers to the Financial Crisis: Social Banking and Social Finance”14 (tạm dịch: câu trả lời của Châu Âu về khủng hoảng tài chính: ngân hàng xã hội và tài chính xã hội), đã làm rõ bản chất của “ngân hàng xã hội” với 3 đặc trưng cơ bản: trách nhiệm với cộng đồng, sự minh bạch và sự bền vững. Đồng thời, tác giả đã

chỉ ra những “ngân hàng xã hội” ở châu Âu và đưa ra những ý tưởng cho việc tìm kiếm những HĐNH hiệu quả, an toàn trong thời gian tới.

Trên thực tế, khi nền kinh tế có những biến động bất lợi hoặc khủng hoảng, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội nói chung và HĐNH nói riêng, các quốc gia cần phải tìm những giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bất lợi do khủng hoảng mang lại. Theo Roland Benediker, việc xây dựng mô hình HĐNH dựa trên các tiêu chí như trách nhiệm với cộng đồng, minh bạch và sự bền vững là cách tiếp cận nhằm bảo đảm an toàn trong HĐNH mà các quốc gia có thể áp dụng. Đây là cách tiếp cận khá mới mẻ và thú vị, có thể được nghiên cứu khi xây dựng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở Việt Nam hiện nay.

Ở góc độ rộng hơn, tác giả Ngô Quốc Kỳ, trong luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”15, đã phân tích ba nhân tố cơ bản


13 Nguyễn Văn Tuyến, “Xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 năm 2003.

14 Roland Benediker là một nhà nghiên cứu về chính trị và xã hội tại Trung tâm Nghiên cứu quốc tế tại Trường

Đại học California tại Santa Barbara. Từ năm 2009-2013 là Giáo sư thỉnh giảng tại Trung tâm châu Âu của Đại học Stanford. Đến nay, ông cộng tác, nghiên cứu và giảng dạy tại European University, Đức. Xem bài viết của ông tại trang web: http://spice.stanford.edu/docs/european_answers_to_the_financial_crisis_social_banking_and_social_finance/

15 Ngô Quốc Kỳ (2003), Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.


ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM là: tính đặc thù về hoạt động của NHTM, cơ chế quản lý kinh tế và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng chính là những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Trong luận án, bên cạnh việc phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM như cấp tín dụng, huy động vốn và thanh toán, tác giả còn đánh giá thực trạng bảo đảm an toàn trong HĐNH, thông qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện bảo đảm an toàn trong hoạt động của NHTM, bao gồm những nội dung cơ bản như dự trữ bắt buộc, dự phòng rủi ro, bảo hiểm tiền gửi, thanh tra, kiểm tra, giám sát NH.

Có thể nhận thấy, pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM có nội dung rất rộng, vì nó bao gồm các quy định về huy động vốn, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Với phạm vi của đề tài luận án tiến sĩ, tác giả Ngô Quốc Kỳ đã cố gắng nghiên cứu khá toàn diện những vấn đề trên. Song cũng vì đó mà tác giả chưa đi sâu phân tích pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Mặt khác những biện pháp bảo đảm an toàn trong HĐNH mà tác giả đã đề cập bao gồm dự trữ bắt buộc, dự phòng rủi ro, bảo hiểm tiền gửi, thanh tra, kiểm tra, giám sát NH cần tiếp tục phải làm sáng tỏ trong mối liên hệ với bảo đảm an toàn trong HĐCTD.

Tóm lại, có một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Nội dung các nghiên cứu nêu trên tập trung vào các vấn đề như: bản chất, vai trò, phạm vi cũng như nội dung của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH... Tuy vậy, những quan niệm về pháp luật bảo đảm an toàn trong HĐNH cần tiếp tục phải nghiên cứu chi tiết hơn; một số công trình nghiên cứu tiếp cận ở góc độ rất rộng (nghiên cứu pháp luật điều chỉnh HĐNH nói chung hoặc bảo đảm an toàn trong HĐNH nói riêng). Vì vậy cần thiết phải có nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Tác giả luận án nhận thấy, các kết quả nghiên cứu nêu trên là những tài liệu quý báu để tiếp thu, chọn lọc và phát triển nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam.

1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng tiếp cận ở góc độ phòng ngừa rủi ro

Phòng ngừa rủi ro là một nội dung quan trọng của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề này.

Trước hết là chuyên khảo “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới” do PGS.TS Lê Thị Thu Thủy chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, xuất bản


năm 2016. Công trình này đã giải quyết ba vấn đề quan trọng: Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của TCTD; Thứ hai, nghiên cứu pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của TCTD ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; Thứ ba, phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay ở Việt Nam hiện nay.

Tác giả luận án nhận thấy, công trình nghiên cứu này có liên quan chặt chẽ đến đề tài luận án, cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu từ công trình này, đặc biệt liên quan đến cơ sở lý luận của pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay; kinh nghiệm xây dựng pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay tại Anh, Hoa Kỳ, Úc, Nga, Nhật Bản cũng như những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, luận án tiếp tục làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM.

Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu bàn về khái niệm, phạm vi, nội dung của phòng ngừa rủi ro trong HĐNH ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có hạn chế rủi ro, quản lý rủi ro, kiểm soát rủi ro và quản trị rủi ro.

Tác giả Lê Thị Ngân Hà, trong luận văn thạc sỹ: “Pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động thẩm định cho vay của ngân hàng thương mại”16, đã phân tích tương đối chi tiết những nội dung của hoạt động thẩm định cho vay cũng như rủi ro phát sinh trong hoạt động này. Tuy không đề cập đến bản chất, nội dung cụ thể của hạn chế rủi ro tín dụng, nhưng tác giả luận văn đã phân tích các khía cạnh của pháp luật điều chỉnh hoạt động thẩm định cho vay nhằm hạn chế rủi ro như năng lực chủ thể của bên vay,

khả năng tài chính của bên vay, mục đích sử dụng vốn, phương án sử dụng vốn vay, thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay.

Tiếp cận tương tự về hạn chế rủi ro nhưng ở góc độ rộng hơn, tác giả Đinh Thị Thuỳ Nga, trong luận văn thạc sĩ Luật học: “Phân tích pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam17, đã phân tích những rủi ro, hệ quả của rủi ro và các tiêu chí đánh giá độ rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM. Tuy vậy, tác giả Đinh Thị Thuỳ Nga vẫn chưa làm sáng tỏ bản chất của hạn chế rủi ro mặc dù đây là vấn đề lý luận quan trọng của vấn đề được nghiên cứu.

Có một số luận án, luận văn và bài viết về quản lý rủi ro trong HĐNH. Đáng kể nhất là luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Lê Thị Huyền Diệu: “Luận cứ khoa học về


16 Lê Thị Ngân Hà (2011), Pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động thẩm định cho vay của ngân hàng thương mại, luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.

17 Đinh Thị Thuỳ Nga (2010), Phân tích pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.


xác định mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”18. Theo tác giả Lê Thị Huyền Diệu, quản lý rủi ro tín dụng là việc thiết lập cơ chế nhận biết, đo lường, quản lý và kiểm soát được các rủi ro hiện tại và tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng một cách đầy đủ, toàn diện nhằm tối đa hoá lợi nhuận được điều chỉnh theo yếu tố rủi ro tín dụng trong một phạm vi chấp nhận được. Cũng theo nội dung luận án, quản lý rủi ro là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của các

nhà quản trị NH nhằm nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được mục tiêu tăng trưởng của mỗi NHTM.

Cùng tiếp cận ở góc độ này, tác giả Trương Thị Anh Tú, trong luận văn thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng”19, đã khẳng định: quản lý rủi ro là việc nhận diện và đề ra các biện pháp nhằm hạn chế sự xuất hiện của rủi ro và những thiệt hại khi chúng phát sinh, đồng thời xác định tương quan hợp lý giữa vốn tự có của NH với mức độ mạo hiểm có thể trong sử dụng vốn NH. Mặc dù có sự khác nhau nhất định, song quan điểm của hai tác giả nêu trên về quản lý rủi

ro đều có chung ở hai điểm chính: (i) Quản lý rủi ro hướng đến bảo đảm an toàn trong HĐNH; (ii) Quản lý rủi ro không phải là triệt tiêu rủi ro, mà là chấp nhận mức độ mạo hiểm, đồng nghĩa với việc duy trì mức độ rủi ro có thể chấp nhận được.

Nghiên cứu về kiểm soát rủi ro tín dụng, tác giả Trần Vũ Hải có bài viết “Những vấn đề pháp lý về hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng”20. Trên cơ sở đưa ra những nội dung của Basel về giám sát rủi ro tín dụng, tác giả đã phân tích và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật về kiểm soát rủi ro tín dụng. Mặc dù không đưa ra khái niệm kiểm soát rủi ro, nhưng tác giả Trần Vũ Hải cho rằng các quy định về kiểm soát rủi ro tín dụng bao gồm: hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ; quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng; quy định về các tỉ lệ bảo đảm an

toàn; quy định về hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Nghiên cứu về quản trị rủi ro, tác giả Nguyễn Hữu Đương, trong bài viết “Đẩy mạnh hoạt động thông tín tín dụng nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”21, đã phân tích lý thuyết hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng; đưa ra kết quả điều tra của Ngân hàng thế giới về hiệu quả hoạt động của thông tin tín dụng; đánh giá hiệu quả của hoạt động thông tin tín dụng đối với HĐNH Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp thúc đẩy hoạt động

thông tin tín dụng NH tại Việt Nam nhằm bảo đảm an toàn HĐNH.


18 Lê Thị Huyền Diệu (2010), Luận cứ khoa học về xác định mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Ngân hàng.

19 Trương Thị Anh Tú (2010), Pháp luật về quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng,

luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

20 Trần Vũ Hải “Những vấn đề pháp lý về hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng”, Tạp chí Luật học, số 12 năm 2007. 21 Nguyễn Hữu Đương, “Đẩy mạnh hoạt động thông tín tín dụng nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số chuyên đề năm 2005.


Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hữu Đương về quản trị rủi ro thông qua hoạt động thông tin tín dụng là khá chi tiết, vì thông tin tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong bảo đảm an toàn HĐCTD. Thực tế ở các NH Việt Nam đã minh chứng vấn đề này. Trong suốt quá trình cấp tín dụng, các NH cần phải nắm rõ những thông tin về khách hàng như năng lực chủ thể, mục đích sử dụng tiền vay, biện pháp bảo đảm và tài sản bảo đảm, khả năng trả nợ... Một khi không nắm được thông tin hoặc thông tin tín dụng không chính xác sẽ làm gia tăng rủi ro và nguy cơ thiệt hại cho các NH.

Nghiên cứu về các phương pháp, cách thức nhằm phòng ngừa rủi ro trong HĐNH, nhà kinh tế học nổi tiếng Ross Levine, trong bài viết “The corporate governance of banks: A concise discussion of concept and evidence”22 (tạm dịch: quản trị công ty trong ngân hàng: bàn luận ngắn về khái niệm và chứng cứ), đã phân tích và đề xuất các chính sách quản trị NH nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả đối với các NH thông qua việc củng cố hệ thống kế toán, kiểm toán cũng như vấn đề thông tin NH,

thanh tra, giám sát NH và xử lý vi phạm. Cùng với hướng nghiên cứu này nhưng hẹp hơn, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) xuất bản báo cáo khoa học “Policy brief on corporate governance of banks in Asia” (tạm dịch: Khái quát chính sách quản trị NH ở châu Á), tháng 6 năm 200623. Báo cáo này có nội dung phân tích những nét cơ bản trong quản trị NH, trong đó đặc biệt nhấn mạnh về trách nhiệm quản trị đối với những giao dịch của các bên có liên quan với NH nhằm phòng tránh rủi ro cho NH.

Trong sách chuyên khảo “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng”24, PGS.TS. Lê Thị Thu Thuỷ đã khẳng định rằng, các biện pháp bảo đảm tiền vay góp phần tạo sự an toàn của các khoản cấp tín dụng, đồng thời nhấn mạnh, các biện pháp này vừa đóng vai trò là các biện pháp bảo đảm hữu hiệu cho sự chuyển giao các khoản vốn vừa đem lại sự dễ dàng được vay vốn của những người có nhu cầu về vốn. Trong nghiên cứu của mình, tiến sỹ Lê Thị Thu Thuỷ cho rằng pháp luật về các

biện pháp bảo đảm tiền vay tiếp tục cần được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi hơn nữa cho các chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay trong việc tiếp nhận, xử lý tài sản bảo đảm, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD.

Cũng theo hướng nghiên cứu này, TS Phạm Văn Tuyết và TS Lê Kim Giang, trong sách tham khảo “Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay”25, đã cho


22 Ross Levine, “The corporate governance of banks: A concise discussion of concept and evidence”, www. elibrary.worldbank.org/.../10.../1813-9450-340. Ross Levine là một nhà kinh tế học người Mỹ, hiện đang làm việc tại Trường Đại học California ở Berkeley. Ông cũng là một thành viên cao cấp tại Viện Milken, một thành viên của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, và là cố vấn của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Tính đến tháng 2 năm 2013, ông là 13 nhà kinh tế được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới.

23 Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, viết tắt là OECD, là một diễn đàn gồm 34 quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới cũng như 70 quốc gia không phải là thành viên. Mục đích của OECD là bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như các vấn đề chung khác. Trụ sở của OECD ở Paris, Pháp. Xem thêm bài viết tại trang web: www.oecd.org/dataoecd/43/41/38187317.pdf.

24 Lê Thị Thu Thuỷ (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, NXB Tư pháp.

25 Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2012), Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay”, NXB Tư pháp.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/05/2023