1.1.2.2 Các nghiên cứu nhân tố chiến lược ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL
Chiến lược kinh doanh là việc xây dựng các mục tiêu hoạt động dài hạn của DNSX trong tương lai và hoạch định cách thức để hoàn thành mục tiêu tổ chức (Ojra, 2014). Guilding (1999) tiến hành nghiên cứu 112 công ty có quy mô lớn tại New Zealand, báo cáo kết quả khẳng định chiến lược ảnh hưởng thuận chiều đến thực hiện và hiệu quả của KTQTCL. Báo cáo đề tài kết luận kỹ thuật kế toán đối thủ cạnh tranh chịu ảnh hưởng mạnh hơn so với dự kiến ban đầu, điều này nghĩa là các tổ chức New Zealand đề cao vai trò của kỹ thuật KTQTCL khi thiết lập chiến lược. Một báo cáo nghiên cứu khác được thực hiện bởi Hoque khi điều tra 52 DNSX ở Newzealand năm 2004. Đề tài cũng phát hiện thấy ảnh hưởng thuận chiều của nhân tố này đến KTQTCL trong đánh giá thành quả, Mặt khác, nhân tố này đóng vai trò chủ đạo trong khi thực hiện và đánh giá thực hiện KTQTCL. Báo cáo nghiên cứu của Hwang (2005) cũng ủng hộ ảnh hưởng cùng chiều tích cực giữa chiến lược và thực hiện KTQTCL. Một kết quả nghiên cứu tương tự khi thực hiện tại 193 đơn vị lớn tại Slovenian. Báo cáo đề tài cho thấy thực hiện KTQTCL được ảnh hưởng cùng chiều tích cực với việc xây dựng chiến lược. Mối quan hệ giữa chiến lược và thực hiện KTQTCL đã được nhiều đề tài khảo sát tại nhiều nước và kết quả đều đúng với kỳ vọng về vai trò của chiến lược ảnh hưởng cùng chiều đến thực hiện KTQTCL như các báo cáo của tác giả như: Điều tra ở nước Ý của Cinquini và cộng sự (2010); Điều tra ở nước Malaysia của Tuan Mat (2010); Điều tra ở Banglesdesh của Fowzia (2011); Điều tra ở Thổ Nhĩ kỳ của Aksoylu và Aykan (2013); hay điều tra ở Palestin của Ojra (2014); Điều tra ở Jordan của Alsoboa (2015) tại Jordan; Và tại nước Mỹ của Michael và công sự (2017).
1.1.2.3 Các nghiên cứu về cơ cấu tổ chức ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL
Cơ cấu của tổ chức là mô hình và mối liên hệ giữa các bộ phận chức năng (Macy và cộng sự, 1995). Hay theo Daft (1989) cơ cấu là các mối liên kết tổ chức về
báo cáo, các cấp quản trị, khả năng kiểm soát của lãnh đạo cấp cao về thời gian và nhân sự, và cách thức truyền thông tin giữa các bộ phận. Tuan Mat (2010) cho rằng cơ cấu là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu dựa trên lý thuyết ngẫu nhiên về KTQTCL. Tác giả Gerdin (2005) cho rằng KTQT là một nhân tố của cơ cấu đơn vị lựa chọn tổ chức nhằm tương thích với hoạt động của mình. Báo cáo Chenhall (2008, tr
525) chú ý đến sự liên kết giữa KTQTCL và cơ cấu là “KTQTCL có các đặc điểm liên quan đến các khía cạnh của doanh nghiệp theo chiều ngang vì cơ cấu doanh nghiệp kết nối chiến lược với chuỗi giá trị của doanh nghiệp”. Báo cáo kết quả Hwang (2005) cho biết yếu tố này tác động cùng chiều đến thực hiện KTQTCL. Hay báo cáo kết quả của Waweru (2008) cũng khám phá thấy mối quan hệ này khi thực hiện điều tra 31 DNSX Canada, tác giả khẳng định cơ cấu có sự phân cấp cao có thể làm nên sự thay đổi về hệ thống KTQT cho phù hợp với những biến động của thị trường. Đề tài của Tuan Mat (2010) cũng ủng hộ kết quả ảnh hưởng tích cực của phân cấp, khi chứng minh được thông qua điều tra 212 tổ chức Malaysia cho biết sự thay đổi cơ cấu ảnh hưởng đến KTQT làm cho KTQT cũng thay đổi theo. Báo cáo kết quả cũng tương tự như trong đề tài của Dik (2011), và tác giả Abdul và cộng sự (2011). Nhưng, báo cáo của đề tài Ojra (2014) lại không thấy được sự ảnh huởng của OSTR đến thực hiện KTQTCL.
1.1.2.4 Các nghiên cứu về nhân tố công nghệ ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL
Công nghệ là nhân tố thuộc về nội bộ của tổ chức, hơn nữa công nghệ cũng là một yếu tố có vai quan trọng ảnh hưởng đến sự thay đổi KTQT (Tuan Mat, 2010). Một số đề tài đã tìm thấy mối quan hệ thúc đẩy thực hiện KTQTCL của công nghệ. Năm 1980, Otley đã kết luận trong báo cáo là việc thực hiện công tác KTQT trong một tổ chức phụ thuộc vào công nghệ sản xuất của tổ chức đó. Lý do của sự phụ thuộc này theo Haldma và Cộng sự (2002) là công nghệ mới sẽ dẫn đến sự thay đổi về cấu trúc hao tổn. Trong trường hợp công nghệ sản xuất trở lên hiện đại phát triển hơn, làm cho hệ thống KTQT trở lên phức tạp hơn để đáp ứng với quy trình sản xuất. Các công nghệ
Có thể bạn quan tâm!
- Đối Tượng Nghiên Cứu, Phạm Vi Khảo Sát
- Các Nghiên Cứu Ủng Hộ Áp Dụng Ktqtcl
- Các Nghiên Cứu Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Ktqtcl
- Nhận Xét Các Nghiên Cứu Trước Và Xác Định Lỗ Hổng Nghiên Cứu
- Phân Biệt Cơ Bản Giữa Ktqt Truyền Thống Và Ktqtcl
- Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị chiến lược và sự tác động đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 307 trang tài liệu này.
sản xuất hiện đại đã gắn liền với cuộc cạnh tranh toàn cầu hóa, đây đã là động lực thúc đẩy tăng nhu cầu quản trị hao tổn hiệu quả hơn. Điều này có thể thực hiện được bằng cách vận dụng hệ thống KTQT phù hợp. theo báo cáo của Tuan Mat (2010) đã tìm thấy ảnh hưởng công nghệ đến sự thay đổi của KTQT, và khi chiến lược và cấu trúc phù hợp với công nghệ sẽ làm tăng thành quả cạnh tranh của tổ chức. Báo cáo đề tài của Choe (2004) cũng tìm thấy ảnh hưởng cùng chiều của yếu tố này với KTQT khi điều tra các tổ chức tại Hàn Quốc. Kết quả đề tài Ojra (2014) tiếp tục củng cố bằng chứng ảnh hưởng cùng chiều biến công nghệ đến thực hiện KTQTCL.
1.1.2.5 Nghiên cứu nhân tố khác ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL
Hai nhân tố cuối được đề tài tổng hợp trong nghiên cứu trước gồm: Văn hóa tổ chức và Trình độ KTQT đã được khám phá trong một số ít đề tài trước có tác động đến tổ chức thực hiện KTQT. Tuy nhiên tính đến thời điểm thực hiện đề tài này tác giả chưa tìm thấy nhiều nghiên cứu nước ngoài đều tra về mối quan hệ này. Cụ thể là:
- Văn hóa gồm các chuẩn mực quy định về hành vi ứng xử và giá trị đạo đức, hành vi của con người trong tổ chức. Tác động thuận chiều của nhân tố này ảnh hưởng đến KTQT đã được chứng minh trong đề tài điều tra 84 DNSX ở Thổ Nhĩ Kỳ của Erserim (2012).
- Nhân tố trình độ KTQT ảnh hưởng thuận chiều đến việc tổ chức KTQT được phát hiện trong một số đề tài của Halma và Laats (2002); Al-Omiri (2003); McChlery và cộng sự (2004); Ismail và King (2007) và Ahmad (2012).
1.1.3 Nghiên cứu về ảnh hưởng của thực hiện KTQTCL đến thành quả.
Tổ chức tiến hành xây dựng hệ thống quản trị kiểm soát hoạt động bắt đầu bằng việc xác định các mục tiêu cơ bản cần thiết đạt được, đây là cơ cở để tổ chức so sánh với kết quả của mình trong tương lai (Otley, 1999). Trong nghiên cứu Alpkan et al (2005) đã xác định thành quả được các lãnh đạo dùng đánh giá số lượng và chất lượng kết quả, cũng là cách để nhà quản trị nhận biết được sự thành công trong công việc kinh doanh. Theo Neely và cộng sự (2002) thành quả là một thấu kính rất quan trọng
trong nghiên cứu về thực hiện KTQTCL, hệ thống dùng để đo lường kết quả được xây dựng với mục đích hỗ trợ cho các quyết định quản trị một cách hiệu quả. Thông tin được cung cấp từ KTQTCL (một kỹ thuật KTQTCL cụ thể) có thể tạo ra một lợi thế cạnh tranh lâu dài bền vững làm các đối thủ chưa thể sao chép một cách dễ dàng (Indounas, 2014), và KTQTCL tạo cơ sở cho nhà quản trị đưa ra quyết định hiệu quả hơn qua đó góp phần cải thiện hiệu quả (Chenhall, 2003). Phần lớn các đề tài điều tra sự tác động của thực hiện KTQTCL đến hiệu quả đều dựa trên khung ngẫu nhiên để giải thích, khung này giả định rằng mỗi tổ chức có một cấu trúc phù hợp nhất với một loại chiến lược nhất định, và khi có cấu trúc phù hợp sẽ mang lại kết quả cao nhất cho tổ chức (Cadez và cộng sự 2012). Bằng chứng đầu tiên thực nghiệm về mối liên hệ tích cực của KTQTCL và thành quả đã được tìm thấy trong đề tài của Subramanian và cộng sự (1998), khi tác giả điều tra 85 đơn vị ở Mỹ về kỹ thuật kế toán đối thủ cạnh tranh và thành quả tổ chức. Báo cáo đề tài Chenhall và cộng sự (1998) cũng tiếp tục ủng hộ về sự tác động đáng kể của các kỹ thuật KTQTCL đến thành quả, dưới các định hướng chiến lược khác nhau, khi tiến hành điều tra các tổ chức lớn tại Úc. Các nghiên cứu sau đây cũng phát hiện sự tác động thuận chiều của KTQTCL đến thành quả. Như đề tài Hoque (2004) cũng ủng hộ kết quả của các đề tài trên khi điều tra 52 DNSX New Zealand. Cadez và Guilding (2008) đã tìm thấy bằng chứng KTQTCL tác động thuận chiều thành quả khi điều tra thực nghiệm tại Slovenia. Al-Mawali và cộng sự (2012) đã khám phá tác động tích cực của kỹ thuật kế toán khách hàng đến thành quả của DNSX tại Jordan khi tiến hành điều tra. Trong một đề tài khác, Cadez và cộng sự (2012) điều tra 109 DNSX lớn ở Slovenia nhằm điều tra sự tác động giữa chiến lược, thực hiện KTQTCL tác động thành quả, báo cáo đề tài khẳng định mức độ thực hiện KTQTCL cao và sự tham gia nhiều hơn của kế toán và các quy trình của chiến lược phù hợp với chiến lược tấn công xâm nhập thị trường, do đó dẫn đến thành quả hoạt động cao hơn. Tương tự, Ayksoy và Aykan (2013) phát hiện tác động của chiến lược và thực hiện KTQTCL đến cả hiệu quả tài chính và phi tài chính của các tổ chức vừa và lớn khi
khảo sát tại Thổ Nhĩ Kỳ. Al Mawali và cộng sự (2013) điều tra 296 DNSX tại Jordan để tìm bằng chứng về mối quan hệ của KTQTCLvà thành quả. Báo cáo đề tài cho biết mức độ sử dụng KTQTCL tác động thuận chiều đến thành quả. Tác động thuận chiều khi thực hiện KTQTCL làm cải thiện thành quả của đơn vị đã được một số đề tài ở trên các nước khác nhau tiếp tục củng cố bằng chứng thực nghiệm như: Ojra (2014), Alsoboa et al (2015); Michael et al (2017); và Abolfazl et al(2017). Tuy nhiên, trong đề tài Almari (2018) khảo sát 103 công ty niêm yết tại Malaysia cho thấy thực hiện KTQTCL không tác động đến thành quả của đơn vị khảo sát này.
Nhìn chung, nghiên cứu tác động của thực hiện KTQTCL và hiệu quả đã được thực hiện ở một số quốc gia như Mỹ (Subramanian etc 1998; Michael etc, 2017); Úc (Chenhall etc 1998); New Zealand (Hoque, 2004); Slovenia (Cadez và Guilding, 2008 ; Cadez và cộng sự, 2012); Jordan (Al-Mawali và cộng sự 2012; Alsoboa, 2015); Thổ Nhĩ Kỳ (Aksoy và cộng sự, 2013); Palestin (Ojra, 2014); Malaysia (Abolfazl và cộng sự, 2017). Tuy nhiên, sự tác động thuận chiều này không có trong tất cả các đề tài. Các đề tài về sự tác động giữa KTQTCL và thành quả tuy chưa nhiều (Cadez và cộng sự, 2008) nhưng bằng chứng thực nghiệm do các đề tài đã cung cấp và củng cố vai trò của KTQTCL làm tăng cường hiệu quả tổ chức.
1.2 Tổng quan các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam các nghiên cứu về KTQTCL còn rất kiêm tốn như đã nêu ở phần tổng quan, nên tác giả không thể phân chia phân nhóm thành nhiều nhóm nhỏ như ở nghiên cứu nước ngoài, chỉ phân biệt thành ba dòng nghiên cứu chính như (1) Các nghiên cứu về nội dung KTQTCL; (2) các nghiên cứu về các nhân tổ ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL; (3) các nghiên cứu tác động của KTQTCL đến thành qủa hoạt động.
1.2.1 Các nghiên cứu về nội dung KTQTCL
KTQTCL xuất hiện và phát triển trong hoàn cảnh tổ chức bắt đầu chú trọng về hoạt động quản trị chiến lược. Khi tiến hành hoạch định các mục tiêu chiến lược, lãnh
đạo có nhu cầu thông tin từ KTQT. Nội dung KTQTCL là một chủ đề mới được nghiên cứu ở Việt Nam khoảng năm 2012. Do đó, tính đến thời điểm hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu thực hiện về KTQTCL chuyên sâu về cả hai mặt cơ sở lý luận và thực nghiệm. Một số đề tài trong nước về nội dung KTQTCL như:
Đoàn Ngọc Quế và cộng sự (2014) với tham luận “Kế toán quản trị trong môi trường kinh doanh hiện đại”, đề tài trình bày khái quát về lịch sử KTQTCL, nội dung KTQTCL, sự ảnh hưởng khi thay đổi của thị phần trong quá trình hội nhập làm KTQT cũng phải thay đổi theo. Tác giả đã tổng hợp nội dung liên quan đến việc đào tạo về KTQTCL trong thời gian qua, đồng thời tác giả đề xuất hàm ý, cũng như việc nâng cao kiến thức về KTQTCL nhằm đưa KTQTCL vào thực hiện ở đơn vị Việt Nam được thành công.
Năm 2016, tác giả Nguyễn Mạnh Thiều với bài báo “Kế toán quản trị chiến lược trong doanh nghiệp”, bài báo đã trình bày những nội dung lý thuyết về KTQTCL như: hoàn cảnh lịch sử của KTQT dẫn đến sự ra đời của KTQTCL, các định nghĩa khác nhau về KTQTCL, nguyên nhân của sự khác nhau này là do các học giả căn cứ vào các quan điểm khác nhau để xây dựng. Đồng thời, bài báo tổng hợp ý kiến thống nhất các học giả là KTQTCL là một bộ phận phát triển lên của KTQT. Ngoài ra, những nội dung cơ bản của KTQTCL được trình bày cụ thể trong bài báo như: Mô hình chiến lược, thực hiện kỹ thuật KTQTCL, kiểm soát và điều chỉnh chiến lược của đơn vị.
Bài báo của Đỗ Thị Hương Thanh và cộng sự năm 2016 với tựa đề “Sự lấp đầy khoảng trống trong khái niệm và sự phát triển của kế toán quản trị chiến lược”, Bài báo phân tích về định nghĩa về KTQTCL một khía cạnh gây nhiều tranh cãi trong thời gian qua, bài báo trình bày một số định nghĩa trên cơ sở các quan điểm khác nhau có ảnh hưởng nhất đến KTQTCL. Nhưng khái quát lại các định nghĩa này đều có một số điểm chung như cung cấp những thông tin có định hướng trong thời gian dài, bao gồm cả hai nguồn tài chính và phi tài chính. Bài báo tổng hợp hai mươi kỹ thuật KTQTCL sử dụng để tập hợp, xử lý và cung cấp nguồn dữ liệu cho hoạt động quản trị của tổ
chức. Nội dung cuối cùng của bài báo mở ra các chủ đề cần tìm hiểu trong tương lai nhằm lấp đầy các khoảng trống trong lý thuyết được đặt ra trong bài báo.
Tác giả Huỳnh Lợi (2017) với đề tài “Nội dung kế toán quản trị chi phí chiến lược tiếp cận từ quản trị chi phí chiến lược”, đề tài tập trung định hướng về lý thuyết xác lập những nội dung cơ bản của KTQT chi phí chiến lược, một trong số các kỹ thuật quan trọng của KTQTCL, tác giả dựa trên mối quan hệ với quản trị hao tổn chiến lược. Đây là mối quan hệ giữa trọng tâm, khuynh hướng, mô hình và nền tảng công nghệ thông tin quản trị hao tổn chiến lược với các kỹ thuật cơ bản của KTQTCL gồm các nội dung sau: (1) KTQT chi phí chiến lược lấy trọng tâm là chuỗi giá trị, (2) với khuynh hướng cung cấp thông tin hướng đến kết nối hoạt động tạo giá trị của doanh nghiệp với người mua trong thị trường (3) với ảnh hưởng của mô hình quản trị theo chuỗi giá trị linh hoạt. (4) Công nghệ thông tin là một nội dung cần phải có trong KTQT chi phí chiến lược.
Tác giả Huỳnh Lợi (2018) với đề tài “Định hướng nghiên cứu kế toán quản trị chi phí chiến lược”. Đề tài tổng hợp, phân tích các nền tảng lý thuyết trước đây để đúc kết những luận điểm quản trị hao phí chiến lược, nội dung, cấu trúc hệ thống KTQT chi phí ở mối tương quan với các cuộc cách mạng công nghệ. Trên cơ sở này, tác giả thiết lập định hướng lý thuyết về KTQT chi phí chiến lược, cách thức xác định hao tổn, về cách phân loại, đo lường chi phí, nội dung KTQT chi phí chiến lược, và gợi ý hình thức báo cáo của công tác KTQT chi phí chiến lược
Tác giả Nguyễn Anh Hiền và cộng sự (2019) với đề tài “ Nghiên cứu các kỹ thuật áp dụng trong kế toán quản trị chiến lược” bài báo tổng hợp lý thuyết về các kỹ thuật KTQTCL đang được nhiều tổ chức thực hiện được chi thành năm nhóm như (1) kỹ thuật chi phí; (2) lập kế hoạch, kiểm soát đo lường thành quả, (3) Quyết định chiến lược, (4) Kế toán người mua, (5) Kế toán đối thủ. Đồng thời, bài báo hệ thống các khía cạnh khác nhau về định nghĩa KTQTCL, đó cũng là lý do định nghĩa về KTQTCL
chưa được thống nhất. KTQTCL vẫn là một khái niệm mới mẻ đối với phần lớn các tổ chức tại Việt Nam.
Các đề tài về KTQTCL tại Việt Nam trong thời gian qua với nội dung chủ yếu là định hướng lý thuyết như khái niệm KTQTCL, lịch sử hình thành KTQTCL, nội dung KTQTCL, và những định hướng trong nghiên cứu và đào tạo KTQTCL, nhằm kịp thời cung cấp tài liệu về KTQTCL cho nhu cầu mới đối với công tác KTQT tại Việt Nam hiện nay.
1.2.2 Các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thực KTQTCL
KTQT ra đời và phát triển gắn liền với thị trường hội nhập, khởi điểm từ nhu cầu cung cấp cho lãnh đạo điều hành tổ chức. Thị trường quốc tế phát triển mở rộng cùng với sự cạnh tranh trong các lĩnh vực khác nhau ngày càng gay gắt, từ đó, làm cho sự thay đổi không ngừng về nội dung và vai trò của KTQT. Do đó, KTQTCL được phát triển theo hướng mở rộng nội dung của KTQT. Tại Việt Nam, lịch sử phát triển của KTQT nói chung và của KTQTCL nói riêng còn mới so với các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong nước đã có một số đề tài về các nhân tố ảnh hưởng đến KTQTCL trong đơn vị được tổng hợp như:
Bài báo của tác giả Đoàn Ngọc Phi Anh (2012), về thực hiện kiểm chứng sự tác động của nhân tố cạnh tranh và phân cấp quản trị ảnh hưởng đến KTQTCL, thông qua điều tra 220 tổ chức lớn và vừa. Đề tài sử dụng PPNC định lượng, đánh giá hình SEM, bài báo cho thấy rằng có bằng chứng về sự ảnh hưởng cùng chiều tích cực của cạnh tranh và phân cấp quản trị đến thực hiện KTQTCL. Do đó, tác giả cũng khuyến nghị công ty nên tổ chức hoạt động dưới sự quản lý phi tập trung để thúc đẩy việc sử dụng nhiều hơn KTQTCL. Tuy nhiên, hạn chế của đề tài là mới chỉ khảo sát hai yếu tố ảnh hưởng đến KTQTCL, những yếu tố khác như công nghệ, nhận thức thị trường, văn hóa
…chưa được đề cập trong nghiên cứu.
Phạm Ngọc Toàn et al (2018), khảo sát 125 DNSX về bốn yếu tố tác động đến KTQTCL. Nhóm tác giả sử dụng PPNC định lượng để khám phá mối liên hệ giữa các