của thông tin KTQTCL cho lãnh đạo trong công tác quản lý, tác giả tiến hành điều tra thực nghiệm tại 65 đơn vị lớn. Báo cáo đề tài cho thấy một sự thay đổi lớn trong thị trường những năm gần đây, nguyên nhân do cuộc khủng hoảng kinh tế, các công ty ở Croatia đặt ra mục tiêu giảm và quản trị được hao tổn, bằng cách đã triển khai một hoặc nhiều kỹ thuật KTQTCL. Đồng thời, thực hiện KTQTCL có ảnh hưởng tích cực đến các thông tin quản lý có liên quan và kịp thời cho lãnh đạo công ty. Một phát hiện quan trọng của đề tài này là tác động tích cực của mỗi kỹ thuật KTQTCL khác nhau, sử dụng kết hợp hai hoặc nhiều kỹ thuật KTQTCL có tác động tích cực đến việc cải thiện quản trị hao tổn và giảm hao tổn. Điều này được giải thích bởi thực tế mỗi phương pháp KTQTCL chỉ cung cấp được một phạm vi thông tin nhất định. Khi sử dụng kết hợp các kỹ thuật làm mở rộng phạm vi thông tin ra quyết định càng cao, thì khả năng ra quyết định hợp lý càng cao về kiểm soát hao tổn. Do đó, để có được thị phần và lợi nhuận, các tổ chức cần bổ sung và kết hợp kỹ thuật KTQTCL với nhau. Các kỹ thuật KTQTCL hỗ trợ mạnh mẽ trong việc ra quyết định và hướng dẫn đối phó với những tình huống thay đổi trong tương lai.
Một đề tài khác cũng nghiên cứu về lợi ích khi thực hiện kỹ thuật KTQTCL của Noordin và cộng sự (2015), tác giả điều tra 97 DNSX điện và thiết bị điện tại Malaysia cho thấy rằng các tổ chức trong nghiên cứu này sử dụng thông tin KTQTCL ở mức độ cao. Các công ty này đã thực hiện KTQTCL để đánh giá thông tin về chiến lược đối thủ và phân tích người mua để hoạch định chiến lược trong thị trường cạnh tranh. Khảo sát cho thấy mỗi yếu tố của thông tin KTQTCL được phát hiện có liên quan đáng kể đến một số khía cạnh của hoạt động công ty, như thành quả sản xuất và hoạt động Marketing liên quan đến hiệu quả của tổ chức so với đối thủ về thị phần, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), mức độ tăng trưởng doanh thu, sản lượng hàng bán ra và năng suất lao động. Đồng thời, những thông tin khách hàng đã giúp công ty tăng sự hài lòng của người mua khi phục vụ một cách đặc biệt hơn đối thủ cạnh tranh. Khi sử dụng hai kỹ thuật KTQTCL của công ty Điện tác động đáng kể liên quan với hoạt
động phi tài chính bao gồm thành tựu của các DNSX khi so sánh đối thủ cạnh tranh chính về phát triển, cải tiến hàng hóa liên tục, giảm hao tổn và nâng cao chất lượng của hàng hóa. Những thông tin này cũng có tác động thuận chiều đến hiệu quả tài chính, bởi vì thông tin KTQTCL cung cấp về giá cả, cấu trúc hao tổn và tình hình tài chính của đối thủ. Vì vậy, các tổ chức có thể dùng các thông tin đó để xây dựng chiến lược cạnh tranh về giá hoặc cũng có thể hoạch định SXKD. Điều này góp phần tăng hiệu quả trong hoạt động quản trị lợi nhuận của tổ chức. Báo cáo gần đây của Oboh và Cộng sự (2017) điều tra tính thực tiễn của việc thực hiện KTQTCL trong ngân hàng ở Nigeria, Oboh và cộng sự đã điều tra 71 lãnh đạo cấp cao trên 20 Ngân hàng, báo cáo đề tài cho thấy các ngân hàng ở Nigeria đang vận dụng KTQTCL, và điều này đã đóng góp phần đáng kể đối với quyết định chiến lược hiệu quả, làm tăng thị phần và năng lực của những ngân hàng được khảo sát.
Từ Những hạn chế của KTQT truyền thống khi đáp ứng thông tin cho lãnh đạo ra quyết định (Shah và cộng sự 2011). nhu cầu thông tin của lãnh đạo và lợi ích của thực hiện KTQTCL mang lại cho tổ chức, việc sử dụng các phương pháp và kỹ thuật của KTQTCL đã trở thành một vấn đề cần thiết, và được ủng hộ thực hiện cho tất cả các tổ chức vì mục tiêu tồn tại và phát triển trong thị trường phức tạp và thường xuyên biến động (Langfield Smith, 2008). Cũng theo như các tài liệu và nghiên cứu thực nghiệm về kỹ thuật KTQTCL được đánh giá trọng tâm cốt lõi là định vị chiến lược để đạt được lợi thế cạnh tranh, hoàn toàn không giống như hầu hết kỹ thuật KTQT truyền thống, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn về giảm chi phí, kiểm soát và đánh giá kết quả kinh doanh.
1.1.1.3 Các nghiên cứu về rào cản khi thực hiện KTQTCL
Kỹ thuật KTQTCL mang lại cho tổ chức nhiều lợi ích và tăng năng lực cạnh tranh trong các nền kinh tế mở, được chứng minh trong một số đề tài, và nhiều nhà nghiên cứu cũng ủng hộ việc áp dụng rộng rãi trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo Langfield Smith (2008) khi tiến hành phân tích các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy
rằng đã hơn 25 năm kể từ khi KTQTCL được Simmond giới thiệu lần đầu tiên năm 1981, KTQTCL được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tiếp tục nghiên cứu chủ đề này trong các nghiên cứu như Bromwich (1990), Bromwich và Bhimani (1994). KTQTCL được khởi đầu với một kỳ vọng về sự phát triển rộng rãi và nhanh chóng, nhưng các nghiên cứu về thực hiện kỹ thuật KTQTCL phản ánh sự một phát triển chậm chạp và không được vận dụng rộng rãi như dự kiến ban đầu. Theo khảo sát của Bromwich và Bhimani (1994) diễn ra vào cuối những năm 1980 và đến năm 1994 ở Anh và Bắc Mỹ cho thấy rằng đã có sự vận dụng KTQTCL ở mức thấp. Năm 1996, một vấn đề đặc biệt về nghiên cứu KTQT dành cho KTQTCL, Tomkins và Carr tuyên bố rằng vẫn chưa xác định rõ ràng về bằng chứng vận dụng rộng rãi KTQTCL và phần lớn nghiên cứu của KTQTCL ở chỉ ở cấp độ khái niệm. Họ nói rằng thời điểm đó không quá 20 bài nghiên cứu quan trọng trong các tạp chí khoa học chính thống. Gosselin (2007) cung cấp tổng quan về 1.477 bài báo viết về kỹ thuật ABC, bao gồm 25 khảo sát được công bố từ năm 1990 đến năm 2005. Tác giả chỉ ra bằng chứng khảo sát làm nổi bật “Nghịch lý ABC”. Nghịch lý đó là khi ABC được nhiều kế toán, nhà quản lý coi là rất hấp dẫn, phổ biến và được chấp nhận là một kỹ thuật có giá trị. Tuy nhiên nghiên cứu tại hầu hết các trường kinh doanh, và bằng chứng của các cuộc khảo sát trong nghiên cứu cho biết mức độ thực hiện ở mức thấp trên toàn cầu. Cũng theo Langfield Smith (2008), ngay cả áp dụng kỹ thuật KTQTCL đã mang lại nhiều lợi thế cạnh tranh vượt trội cho công ty Nhật Bản như chi phí mục tiêu, phân tích chuỗi giá trị. Nhưng có rất ít bằng chứng về thực hiện rộng rãi những kỹ thuật KTQTCL trong các tổ chức Nhật, kể cả các công ty con của Nhật ở phương tây.
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị chiến lược và sự tác động đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam - 2
- Đối Tượng Nghiên Cứu, Phạm Vi Khảo Sát
- Các Nghiên Cứu Ủng Hộ Áp Dụng Ktqtcl
- Các Nghiên Cứu Nhân Tố Chiến Lược Ảnh Hưởng Đến Thực Hiện Ktqtcl
- Nhận Xét Các Nghiên Cứu Trước Và Xác Định Lỗ Hổng Nghiên Cứu
- Phân Biệt Cơ Bản Giữa Ktqt Truyền Thống Và Ktqtcl
Xem toàn bộ 307 trang tài liệu này.
Qua các kết quả được tổng hợp từ các nghiên cứu trên cho biết rằng mặc dù KTQTCL có vai trò và lợi ích trong doanh nghiệp nhưng phát triển rất chậm và chưa được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp (Cadez và Gulding, 2008). Các rào cản cho sự phát triển của KTQTCL theo nghiên cứu của Sulaiman và cộng sự (2004), có rất nhiều rào cản đơn vị gặp phải khi vận dụng KTQTCL. Rào cản đầu tiên có thể kể
đến đó là sự phản đối thay đổi của nhân viên KTQT. Theo nghiên cứu của Bromwich và Bhimanni (1994) sự chậm phát triển của KTQTCL có thể do sự phản kháng với sự thay đổi có thể được phát sinh từ ảnh hưởng bất lợi khi chuyển sang áp dụng kỹ thuật ABC, điều này có thể làm cho nhân viên nhận thấy sự bất lợi về thành quả hoạt động của mình khi phải đáp ứng với thông tin hao tổn mới. Cũng theo nghiên cứu của Sulaiman và cộng sự (2004) Thách thức phổ biến nhất mà tổ chức phải đối mặt là cả lãnh đạo cấp trung và cấp dưới có xu hướng chống lại thực hiện kỹ thuật KTQT mới được tổ chức quyết định vận dụng. Nguyên nhân xuất phát từ sự lo sợ rằng họ không hiểu về kỹ thuật, cũng như kỹ năng và chuyên môn của họ sẽ mất giá trị khi các kỹ thuật mới được vận dụng. Bất cứ điều gì có khả năng làm giảm giá trị sẽ bị chống lại, theo tâm lý chung mọi người đều muốn mình có giá trị trong công ty. Vì vậy, khi họ có tâm lý lo sợ không bắt kịp sự thay đổi sẽ bị đào thảo, nên họ có thể không đồng tình khi thực hiện các kỹ thuật KTQTCL. Rào cản này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Shank (2007) do nhân viên lo sợ chưa có kiến thức về kỹ thuật KTQTCL. Vì vậy, không có khả năng thực hiện được các kỹ thuật mới này khi áp dụng.
Khi thực hiện các đề tài vận dụng KTQT ở bốn nước bao gồm Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia. Sulaiman và cộng sự (2004) kết luận rào cản thứ hai cản trở sự phát triển kỹ thuật kế toán mới là do thiếu kiến thức chuyên môn, nhận thức và sự hỗ trợ của ban lãnh đạo, khiến cho công ty không thay đổi được công tác kế toán. Ansari và cộng sự (2007) cho rằng nhiều nhà quản trị đánh giá thấp tiềm năng của kỹ thuật KTQTCL và đây là một rào cản cho việc áp dụng thấp. Theo Langfield- Smith (2008) Những khó khăn cản trở việc áp dụng hiệu quả KTQTCL trong đơn vị liên quan đến những vấn đề lãnh đạo như chính sách quản trị và sự hiểu biết đầy đủ của kỹ thuật KTQTCL. Nghiên cứu Almaryani và cộng sự (2012), sự không sẵn sàng của lãnh đạo để thay đổi các hệ thống hiện đang được sử dụng, bởi vì hệ thống KTQT truyền thống được coi là đầy đủ và không cần phải thay đổi. Yap và cộng sự (2013) cũng phát hiện ra rào cản này khi khảo sát cho các tổ chức ở Malaysia, những lý do hàng đầu khiến
đối tượng khảo sát chủ yếu vẫn thực hiện KTQT truyền thống là họ không hiểu thực hiện kỹ thuật KTQTCL và yêu cầu thực hiện các kỹ thuật này, thiếu sự hỗ trợ của ban lãnh đạo về ngân sách, thời gian cũng như nhân lực vận dụng sự thay đổi về kỹ thuật KTQTCL. Họ nhận thức rằng đây không phải là công việc của họ và khi áp dụng những kỹ thuật KTQTCL rất phức tạp, nó cần có những kỹ năng đặc biệt thực hiện. Tuy nhiên, những người trả lời trong khảo sát này không đồng ý rằng việc họ không hiểu KTQTCL là lý do chính để không áp dụng những kỹ thuật này. Theo Aken và Okeye (2012), kế toán làm việc trong tổ chức nhỏ hầu như không có hiểu biết về việc vận dụng KTQTCL. Mặt khác, theo Fagbemi và cộng sự (2012) trong các cơ sở giáo dục chưa đưa vào giảng dạy các kỹ thuật KTQTCL, mà chủ yếu vẫn giảng dạy KTQT truyền thống, do đó gây khó khăn cho việc tiếp cận kỹ thuật KTQTCL đối với kế toán. Nhóm tác Reza Ghasemi và cộng sự (2015) cho biết rào cản nhận thức về KTQT truyền thống mang lại lợi ích cao hơn và phù hợp phương pháp KTQT hiện đại làm cho việc vận dụng KTQTCL gặp nhiều khó khăn. Theo khảo sát Ojua (2016) tại DNSX ở Nigerian việc thực hiện kỹ thuật KTQTCL rất thấp nguyên nhân do nhân viên có sự hiểu biết rất hạn chế về KTQTCL. Còn về phía nhà quản trị thì không xem trọng vai trò của các công cụ KTQTCL. Các DNSX này chủ yếu vẫn thực hiện công cụ KTQT truyền thống và lãnh đạo cấp cao chưa thấy bất kỳ lợi ích nào khác trong việc áp dụng KTQTCL thay thế. Tâm lý sợ sự thay đổi của lãnh đạo khi thực hiện KTQTCL mới cũng là rào cản được tìm thấy trong nghiên cứu này.
Rào cản thứ ba thuộc về thách thức hao tổn đầu tư lớn khi thực hiện kỹ thuật KTQTCL như chi phí mục tiêu, BSC và ABC cũng được Sulaiman et al (2004) đề cập trong nghiên cứu này. Nguyên nhân do kế toán có thể thiếu chuyên môn và hiểu biết về kỹ thuật mới này. Do đó, tổ chức cần thuê hoặc tuyển chuyên gia về đào tạo, tư vấn cho các nhân viên hiện có, giúp cho công tác tổ chức KTQTCL được thuận lợi và nhanh chóng hơn. Vì vậy, việc triển khai các kỹ thuật mới làm tăng hao tổn của tổ chức. Nghiên cứu Almaryani và cộng sự (2012) hao tổn cao hơn khi sử dụng kỹ thuật
KTQTCL là nguyên nhân hàng đầu trong nghiên cứu cản trở đến việc thực hiện. Cũng theo Fagbemi và cộng sự (2013) sự nghèo nàn của ngân sách đầu tư cho việc thiết lập một hệ thống kế toán phối hợp với cơ chế kiểm soát nội bộ khi thực hiện kỹ thuật KTQTCL là thách thức lớn khi thực hiện KTQTCL. Thách thức về nguồn ngân sách đầu tư khi thực hiện KTQTCL cũng là rào cản được tìm thấy trong khảo sát của Ojua (2016).
Việc áp dụng KTQTCL có thành công trong các doanh nghiệp được hay không theo nghiên cứu Akenbor và Okoye (2012) còn phụ thuộc vào đặc điểm của tổ chức. Vì những kỹ thuật này chưa có các tiêu chuẩn quy trình đặt ra để thực hiện. Do đó, rất khó để các tổ chức vận dụng vào thực tế hoạt động. Những hoạt động quản trị về chi phí như là những chức năng đặc biệt, mà không có bất kỳ tiêu chuẩn hay quy trình được xây dựng từ trước. Vì thế, làm cho việc vận dụng KTQTCL rất khó để thực hiện. Kết quả về rào cản này cũng được kiểm định trong nghiên cứu Almarynai và cộng sự (2012), Ahmad (2012).
Rào cản cuối cùng là các chính sách của chính phủ Theo Chenhall và Langfeld- Smith (1998), những những qui định này của chính phủ có thể đóng vai trò khuyến khích hoặc cản trở cho việc thực hiện công tác KTQT. Một nền kinh tế được hoạch định hoặc có mức bảo hộ cao có thể làm cho các công ty ít động lực để tiếp cận các phương pháp mới. Do đó, chính phủ nên áp dụng các chính sách giảm các chương trình bảo hộ khi nền kinh tế có sự cạnh tranh cao, các DNSX sẽ nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật KTQTCL.
1.1.2 Các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến KTQTCL
Hầu hết các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến KTQTCL được các tác giả sử dụng PPNC định lượng hoặc PPNC định tính kết hợp PPNC định lượng để xác định và đo lường mức độ ảnh hưởng các nhân tố đến KTQTCL.
Theo một số nhà nghiên cứu, KTQTCL có vai trò quan trọng liên quan đến thông tin lợi thế cạnh tranh chính của doanh nghiệp (Moon và Bates, 1993). Dixon và
Smith (1993) chỉ ra rằng trong một môi trường năng động, cạnh tranh, những thông tin chiến lược là quan trọng nhất cho quá trình xây dựng và phân tích chiến lược. Thời gian gần đây, trong giới học thuật có một số đề tài chuyên sâu khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL như nghiên cứu Guilding, C. (1999); Cadez và Mc Manus (2002); Hoque, (2004); Hwang (2005); Cadez và Guilding (2008); Tuan Mat (2010); Fowzia; Al-Mawali và cộng sự (2012); Ojra (2014); Al-Mawali (2015),… cung cấp minh chứng và xây dựng khung lý thuyết về mối quan hệ ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL và những nghiên cứu ủng hộ thực hiện KTQTCL.
Thông qua phụ lục 1.1 cho biết rằng các đề tài đa phần vận dụng khung ngẫu nhiên nhằm giải thích cho thực hiện KTQTCL. Khi xem xét kết quả các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL trong các đề tài trước, đề tài rút ra được sáu nhân tố gồm: nhận thức sự không chắc chắn về môi trường kinh doanh (viết ngắn là nhận thức về thị trường), Chiến lược tổ chức (viết ngắn là chiến lược), cấu trúc phân cấp quản lý của tổ chức (viết ngắn ngọn là phân cấp), văn hóa công ty (Viết ngắn là văn hóa), Trình độ nhân viên KTQT(Viết ngắn ngọn là trình độ), công nghệ tổ chức (Viết ngắn là công nghệ)
1.1.2.1 Các nghiên cứu nhận thức về thị trường ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL
Achrol và cộng sự (1988) Nhận thức về sự biến động là sự nhận thức về thị trường có nhiều sự thay đổi của lãnh đạo khi thực hiện việc ra quyết định. Một số đề tài đã tìm thấy sự ảnh hưởng của yếu tổ này đến thực hiện KTQT trong tổ chức. Do đó, khi lãnh đạo nhận thức thị trường cao, thì tổ chức thường tăng nhu cầu thông tin không chỉ là tình hình tài chính nội bộ, mà còn khai thác các thông tin bên ngoài như về đối thủ, nhà cung cấp với mục đích tạo cơ sở cho lãnh đạo ra quyết định (Gordon et al 1984). Chenhall et al (1986) khẳng định rằng yếu tố này ảnh hưởng lớn đến nhu cầu thông tin, đồng thời sự tác động cùng chiều tích cực của nhân tố này đến thực hiện KTQTCL cũng tìm được bằng chứng thực nghiệm trong đề tài này. Khi tổ chức làm
việc trong thị trường có nhiều biến động, nhận thức của lãnh đạo về thị trường càng cao, thì nhu cầu của lãnh đạo không chỉ là những thông tin trên báo cáo, mà còn đặt ra những yêu cầu về tính kịp thời và đầy đủ của thông tin với những thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh. Mặt khác, một nhu cầu mới đặt ra đối với KTQT là phải khai thác dữ liệu từ những khía cạnh bên ngoài, có định hướng dài hạn và tương lai, nên điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho KTQTCL được dùng tại tổ chức. Một nghiên cứu điển hình trong ngành thời trang ở Hàn Quốc của Hwang (2005), điều tra 400 nhà bán lẻ, đây là một ngành có rất nhiều biến động do khách hàng không có sự trung thành và dễ dàng chuyển sang sản phẩm khác của đối thủ cạnh tranh. Báo cáo kết quả cho biết yếu tố này có ảnh hưởng cùng chiều với thực hiện KTQTCL tại tổ chức khảo sát. Bởi vì, lãnh đạo có nhu cầu khai thác thông tin do KTQTCL cung cấp và chủ động trong đối phó với sự biến động của thị trường kinh doanh. Ahmad (2012) cũng tìm thấy ảnh hưởng thuận chiều của yếu tố này đến KTQT khi điều tra 160 đơn vị tại Malaysia. Al-Mawali (2015) nhấn mạnh vai trò của nhận thức đối với thực hiện KTQTCL trong khảo sát 98 đơn vị Jordan. Báo cáo cho thấy khi tổ chức hoạt động với nhận thức về thị trường cao thì nhu cầu thực hiện KTQTCL cao hơn đối với đơn vị có nhận thức về thị trường thấp. Kết quả đề tài này cũng tiếp tục ủng hộ ảnh hưởng thuận chiều của nhân tố này đến thực hiện KTQTCL. Một báo cáo kết quả nghiên cứu tương tự được chứng minh tại Malaysia của Noordin et al (2015), đề tài này đã minh chứng rằng các đơn vị thật sự đã dùng nhiều hơn thông tin do KTQTCL cung cấp, khi làm việc trong thị phần cạnh tranh cao. Nhưng báo cáo trong đề tài Guildling và McManus (2001) thực hiện tại Úc cho biết yếu tố này có ảnh hưởng rất ít đến thực hiện KTQTCL. Hoque (2004) có kết quả tương tự khi không phát hiện ảnh hưởng của nhân tố này đến KTQTCL. Tại Palestin, Ojra (2014) cũng cho kết quả tương tự khi kiểm định không có bằng chứng nào về ảnh hưởng của nhận thức thị trường đến KTQTCL.