Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Hệ Thống Nhtm (2010-2012)


thập từ Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, chi nhánh TPHCM (VCCI TPHCM), là một tập hợp email của những người làm việc trong các doanh nghiệp tại TP.HCM. Kết quả thu được 266 bảng trả lời qua mạng được hồi đáp (xin xem hình 3.1), kiểm tra thông tin và sàn lọc lại còn lại 254 bảng trả lời hợp lệ. Các bảng trả lời (cả bảng khảo sát giấy và trực tuyến) bị loại là bảng khảo sát điền dở dang, những bảng thiếu một loạt thông tin ví dụ như đặc điểm nhân khẩu học, những bảng câu hỏi có cách trả lời giống nhau từ năm đến mười mục hỏi liên tục…Tổng cộng thu được 322 bảng trả lời hợp lệ, trong số đó có vài trường hợp dữ liệu bị khuyết, tuy nhiên, những liệu bị khuyết là ngẫu nhiên, rời rạc không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.

1.5. Kết luận


Các kết quả tổng quan tài liệu nghiên cứu cho thấy các nhân tố (factor) và biến thành phần dùng để đo lường các nhân tố có sự không đồng nhất giữa các kết quả nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu về lựa chọn ngân hàng một mặt vừa kế thừa tập hợp các biến từ các nghiên cứu trước đây, vừa tiến hành nghiên cứu định tính và định lượng để khám phá vấn đề (Narteh & Owusu-frimpong (2011),Ta & Kar (2000), Blankson et al. (2007). Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu chỉ kế thừa tập hợp biến và nghiên cứu định lượng chính thức như Lymperopolos (2006). Trong nghiên cứu này, tác giả kế thừa tập hợp biến từ các nghiên cứu trên thế giới, bổ sung các biến từ các nghiên cứu tại Việt Nam để lập bảng câu hỏi và hệ thống các câu hỏi nghiên cứu.


CHƯƠNG 2:


THỰC TRẠNG VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGÂN HÀNG GIAO DỊCH GỬI TIỀN CỦA

KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.


2.1. Tổng quan về các NHTM ở Việt Nam‌

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngân hàng giao dịch tiền gửi của khách hàng cá nhân - 4


2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển


Ngân hàng là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận tiền gửi và định kênh những tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay, hoặc trực tiếp bằng cách cho vay hoặc gián tiếp thông qua các thị trường vốn. Ngân hàng là kết nối giữa khách hàng có thâm hụt vốn và khách hàng có thặng dư vốn.

Do ảnh hưởng của họ trong hệ thống tài chính và nền kinh tế, các ngân hàng bị quy định cao trong hầu hết các nước. Hầu hết các ngân hàng hoạt động theo một hệ thống được gọi là hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn mà họ chỉ nắm giữ có một dự trữ nhỏ của các khoản tiền gửi và cho vay phần còn lại để kiếm lời. Họ nói chung là tùy thuộc vào các yêu cầu vốn tối thiểu được dựa trên một bộ tiêu chuẩn quốc tế về vốn, được gọi là Hòa ước Basel.

Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển trong thế kỷ 14 tại các thành phố giàu có của Ý thời Phục hưng nhưng trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý tưởng và khái niệm của tín dụng và cho vay mà có nguồn gốc từ thế giới cổ đại. Trong lịch sử hoạt động ngân hàng, một số triều đại ngân hàng đã đóng một vai trò trung tâm trong nhiều thế kỷ.

Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của từ này có thể được truy nguồn tới nước Ý thời trung cổ và đầu Phục Hưng, đến các thành phố giàu có ở phía bắc như Florence, Lucca, Siena, Venice và Genoa. Các Bardi và các gia đình Peruzzi thống trị hoạt động ngân hàng trong Florence thế kỷ 14, bằng cách thành lập chi nhánh ở nhiều nơi khác của châu Âu. Một trong những ngân hàng nổi tiếng nhất của Ý là Ngân hàng Medici, được thành lập bởi Giovanni di Bicci de 'Medici năm 1397.


ngân hàng tiền gửi nhà nước được biết đến sớm nhất, Banco di San Giorgio (Bank of St. George), được thành lập năm 1407 tại Genoa, Ý.

Ngân hàng lâu đời nhất còn tồn tại là Monte dei Paschi di Siena, trụ sở chính tại Siena, Ý, đã hoạt động liên tục kể từ năm 1472. Tiếp sau đó là Berenberg Bank của Hamburg (1590) và Sveriges Riksbank của Thụy Điển (1668).

Định nghĩa của một ngân hàng thay đổi từ nước này sang nước khác. Theo thông luật Anh, người hoạt động ngân hàng được định nghĩa là người thực hiện kinh doanh hoạt động ngân hàng, được xác định là:

quản lý các tài khoản vãng lai cho khách hàng của mình,


trả tiền các séc được khách hàng rút tiền, và


thu tiền các séc cho các khách hàng của mình.


2.1.2. Cơ cấu tổ chức hoạt động kinh doanh


2.1.2.1. Các hoạt động kinh doanh

Các ngân hàng hoạt động như các đại lý thanh toán bằng cách quản lý các tài khoản séc hoặc vãng lai cho khách hàng, trả tiền các séc được rút bởi khách hàng tại ngân hàng, và thu các séc gửi vào tài khoản vãng lai của khách hàng. Các ngân hàng cũng cho phép khách hàng thanh toán qua các phương thức thanh toán khác như thanh toán bù trừ tự động (ACH), chuyển tiền hoặc chuyển tiền điện báo, EFTPOS và máy rút tiền tự động (ATM).

Các ngân hàng vay tiền bằng cách nhận các khoản tiền được ký quỹ trên các tài khoản vãng lai, bằng cách chấp nhận tiền gửi kỳ hạn, và bằng cách phát hành các chứng khoán nợ như tiền giấy và trái phiếu. Các ngân hàng cho vay tiền bằng cách ứng trước cho khách hàng trên tài khoản vãng lai, bằng cách làm các cho vay trả góp, và bằng cách đầu tư vào chứng khoán nợ có thể giao dịch trên thị trường và các hình thức cho vay tiền.

Các ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán khác nhau, và một tài khoản ngân hàng được coi là không thể thiếu của hầu hết các doanh nghiệp và cá nhân.


Các phi ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán như các công ty chuyển tiền thường không được coi là một sự thay thế thích hợp cho một tài khoản ngân hàng.

Các ngân hàng có thể tạo ra tiền mới khi họ cho vay. Các khoản vay mới trên toàn hệ thống hoạt động ngân hàng tạo ra tiền gửi mới ở những nơi khác trong hệ thống. Cung tiền này thường được tăng bởi hành vi cho vay, và giảm đi khi các khoản vay được hoàn trả nhanh hơn so với những khoản vay mới được tạo ra. Ở Vương quốc Anh từ năm 1997 đến 2007, đã có một sự gia tăng lớn trong việc cung cấp tiền, chủ yếu là do ngân hàng cho vay nhiều hơn, điều này phục vụ để đẩy giá bất động sản và tăng nợ tư nhân. Số tiền trong nền kinh tế được đo bằng M4 ở Anh đã đi từ 750 tỷ bảng Anh lên 1700 tỷ bảng Anh từ năm 1997 đến năm 2007, phần lớn sự gia tăng này do ngân hàng cho vay. Nếu tất cả các ngân hàng tăng cho vay của họ cùng nhau, sau đó họ có thể mong đợi các tiền gửi mới để trả lại cho họ và số tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cho vay quá mức hoặc nguy hiểm có thể làm cho những người vay vỡ nợ, các ngân hàng sau đó trở nên thận trọng hơn, do đó, cho vay ít hơn và do đó ít tiền để nền kinh tế có thể đi từ sự bùng nổ tới phá sản như đã xảy ra ở Anh và nhiều nền kinh tế phương Tây khác sau năm 2007.

2.1.2.2. Mô hình kinh doanh


Một ngân hàng có thể tạo ra doanh thu theo nhiều cách khác nhau bao gồm tiền lãi, các phí nghiệp vụ và tư vấn tài chính. Phương pháp chính là thông qua tính phí tiền lãi trên phần vốn cho các khách hàng vay.[cần dẫn nguồn] Lợi nhuận ngân hàng từ sự khác biệt giữa mức tiền lãi nó trả cho tiền gửi và các nguồn vốn khác, và mức tiền lãi nó tính phí trong hoạt động cho vay của mình.

Sự khác biệt này được gọi là chênh lệch giữa chi phí cấp vốn và lãi suất cho vay. Trong lịch sử, khả năng lợi nhuận từ các hoạt động cho vay là có tính chu kỳ và phụ thuộc vào nhu cầu và sức mạnh của khách hàng vay và giai đoạn của chu kỳ kinh tế. Các phí và tư vấn tài chính là luồng thu nhập ổn định hơn và do đó các ngân hàng đã chú trọng hơn vào những dòng doanh thu này để làm mịn hiệu quả tài chính của họ.


Trong 20 năm qua các ngân hàng Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp để đảm bảo rằng họ vẫn có thể có lợi nhuận trong khi đáp ứng các điều kiện thị trường ngày càng thay đổi.

Đầu tiên, điều này bao gồm Đạo luật Gramm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng một lần nữa để kết hợp với đầu tư và bảo hiểm nhà. Việc sáp nhập ngân hàng, các chức năng đầu tư và bảo hiểm cho phép các ngân hàng truyền thống đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng "giao dịch một cửa" bằng cách cho phép bán chéo các sản phẩm (điều này, các ngân hàng hy vọng, cũng sẽ tăng khả năng lợi nhuận).

Thứ hai, họ đã mở rộng việc sử dụng định giá dựa trên rủi ro từ cho vay kinh doanh sang cho vay tiêu dùng, có nghĩa là tính lãi suất cao hơn cho những khách hàng được coi là một rủi ro tín dụng cao hơn và do đó tăng cơ hội của vỡ nợ trên các khoản vay. Điều này giúp bù đắp những tổn thất từ các khoản vay xấu, làm giảm giá của các khoản vay cho những người có lịch sử tín dụng tốt hơn, và cung cấp các sản phẩm tín dụng cho các khách hàng có rủi ro cao, người mà trong điều kiện khác sẽ bị từ chối tín dụng.

Thứ ba, họ đã tìm cách tăng các phương pháp xử lý thanh toán có sẵn cho công chúng nói chung và khách hàng kinh doanh. Những sản phẩm này bao gồm thẻ ghi nợ, thẻ trả trước, thẻ thông minh, và thẻ tín dụng. Chúng làm cho dễ dàng hơn đối với người tiêu dùng để thực hiện giao dịch một cách thuận tiện và làm mịn tiêu thụ của họ theo thời gian (trong một số quốc gia với hệ thống tài chính kém phát triển, nó vẫn còn phổ biến để xử lý nghiêm bằng tiền mặt, bao gồm việc mang các vali đầy tiền mặt để mua một ngôi nhà).

Tuy nhiên, với sự tiện lợi của tín dụng dễ dàng, cũng có nguy cơ tăng lên rằng người tiêu dùng sẽ quản lý dở các nguồn lực tài chính của họ và tích lũy nợ quá mức. Các ngân hàng làm ra tiền từ các sản phẩm thẻ thông qua thanh toán có lãi và các phí được tính cho người tiêu dùng và các phí nghiệp vụ cho các công ty chấp


nhận thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ. Điều này giúp cho việc làm ra lợi nhuận và tạo điều kiện phát triển kinh tế nói chung.

2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh hệ thống NHTM (2010-2012)


2.1.3.1. Kết quả điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, tỷ giá

- Điều hành lượng tiền cung ứng một cách chủ động, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa các kênh, góp phần tăng dự trữ Ngoại hối Nhà nước ở mức lớn, nhưng vẫn đảm bảo góp phần kiềm chế lạm phát theo mục tiêu, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống. Đến cuối năm 2012, tổng phương tiện thanh toán tăng 22,4% so với cuối năm 2011, tuy cao hơn mức định hướng đề ra từ đầu năm nhưng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ.

- Điều hành lãi suất đã định hướng, dẫn dắt thị trường, đồng thời có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ; mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh so với cuối năm 2011. Đến cuối năm 2012, mặt bằng lãi suất huy động VND giảm 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và đã trở về mức lãi suất vào cuối năm 20071.

- Các giải pháp tín dụng được điều hành linh hoạt theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của TCTD, cơ cấu tín dụng chuyển hướng tích cực phù hợp với chủ trương chống đô la hóa và tập trung vốn vào hoạt động sản xuất-kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ. Đến cuối năm 2012, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 8,91%. Trong đó, tín dụng VND tăng 11,51%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 1,56% so với cuối năm 2011, phù hợp với chủ trương hạn chế đô la hóa của Chính phủ. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 8%, tín dụng xuất khẩu tăng khoảng 14%, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng




1 Lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ ở mức 9-12%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất - kinh doanh khác và tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, trong đó lãi suất cho vay đối với các khách hàng tốt chỉ từ 9- 11%/năm.


6,15%. Dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích giảm và chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% so tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.

- Hệ thống ngân hàng quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp theo chỉ đạo của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh (về chi phí vay vốn và khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng). Tín dụng mặc dù tăng trưởng thấp nhưng đã tăng dần trở lại qua các tháng; tỷ trọng dư nợ cho vay với lãi suất trên 15%/năm đã giảm mạnh từ mức 65,8% trước ngày 15/7/2012 xuống còn 19,2% vào cuối năm 2012. Các TCTD đã chủ động phối hợp với khách hàng vay rà soát, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng để tháo gỡ khó khăn trong việc trả nợ vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất-kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án, phương án vay vốn, khả năng trả nợ của khách hàng.

- Điều hành chính sách tỷ giá và ngoại hối chủ động, dẫn dắt thị trường, kết hợp với việc điều hành chính sách tiền tệ hợp lý đã đạt được mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Tỷ giá mua trung bình của các NHTM giảm 1% so với cuối năm 2011, chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do bị thu hẹp. Tỷ lệ đô la hóa (tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán) giảm xuống còn 12,3% từ mức 15,8% vào cuối năm 2011. NHNN mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng Dự trữ ngoại hối Nhà nước.

- Thanh khoản bằng VND của hệ thống các TCTD được cải thiện, nguy cơ đổ vỡ hàng loạt từ cuối năm ngoái đã được đẩy lùi, các TCTD đã chú trọng hơn trong việc quản trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn hệ thống. Thể hiện: (i) Số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc; (ii) Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm 10-11%/năm so với đầu năm và ổn định ở mức thấp, không còn tình trạng căng thẳng về thanh khoản, đẩy lãi suất lên cao như trong năm 2011; (iii) Các TCTD đã mua một lượng lớn trái phiếu Chính phủ để cơ cấu lại danh mục đầu tư và dự phòng thanh khoản; (iv) Hoạt động của các TCTD về cơ bản an toàn, lành mạnh, trật tự kỷ cương thị trường đã được khôi phục và tiếp tục được duy trì ổn định.


- NHNN tăng cường phối hợp chặt chẽ toàn diện hơn với các Bộ, ngành, đảm bảo tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác: (i) Việc phát hành Tín phiếu NHNN được thực hiện với khối lượng, kỳ hạn và lãi suất hợp đã tạo điều kiện để Bộ Tài chính phát hành được một khối lượng lớn tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, qua đó tăng thanh khoản cho nền kinh tế (nếu tính cả hai kênh tín dụng và đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, hệ thống các TCTD đã cung ứng vào nền kinh tế tương đương mức tăng trưởng tín dụng khoảng 13,91%). (ii) Chủ động phối hợp, làm việc trực tiếp với Bộ Công thương, Bộ Xây dựng để đánh giá và triển khai các biện pháp xử lý hàng tồn kho của doanh nghiệp và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản; (iii) Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để hỗ trợ cho vay đối với thủy sản, cá ba sa tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cho vay thu mua, xuất khẩu gạo, cho vay đối với ngành cà phê, cho vay đối với chăn nuôi, chế biến thịt lợn, gia cầm và cá tra, xây dựng nông thôn mới...

2.1.3.2. Quản lý thị trường vàng


Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã xây dựng lộ trình chấm dứt tình trạng ”vàng hóa” nền kinh tế gồm ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Xây dựng khuôn khổ pháp lý chặt chẽ để quản lý thị trường vàng; Giai đoạn 2: Chấm dứt hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng và Giai đoạn 3 là chuyển hoàn toàn quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua, bán vàng miếng; Nhà nước sẽ thực hiện huy động nguồn vốn bằng vàng thông qua việc mua vàng tăng Dự trữ Ngoại hối Nhà nước và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Kết quả triển khai trong năm 2012 cụ thể như sau:

NHNN đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 (Nghị định 24) thay thế Nghị định 174 về quản lý thị trường vàng. Nghị định 24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm tổ chức, sắp xếp lại thị trường vàng. Sau khi Nghị định 24 được ban hành, NHNN đã khẩn trương ban hành các văn bản triển khai, gồm: Thông tư số 16/2012/TT-NHNN;Quyết định 1623/QĐ-

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí