bình quân vẫn ở mức chấp nhận được làm tăng khả năng bảo đảm thanh toán cho các ngân hàng thương mại.
2.4.2 Những hạn chế trong hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam
Bên cạnh những kết quả đạt được, khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007 – 2012 đang giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt là sự sụt giảm của (ROA).
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại là do chất lượng tài sản còn nhiều hạn chế, thể hiện qua một số điểm sau: (1) Tỷ lệ nợ xấu Việt Nam ở mức báo động với hơn 8.8%; (2) Mặc dù đa dạng hóa danh mục tài sản nhưng dư nợ cho vay vẫn còn chiếm tỷ trọng cao; (3) Cơ cấu dư nợ tín dụng còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý như huy động nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, tập trung nhiều vào nhóm đối tượng khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước, hoặc vào một số ngành nghề, lĩnh vực đang gặp vấn đề như bất động sản, vật liệu xây dựng…
Ngoài ra, sự yếu kém trong công tác quản trị chi phí đã làm cho tỷ lệ chi phí/doanh thu tăng dần, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007 – 2012.
2.4.3 Những nguyên nhân chủ yếu
Muốn giải quyết được những hạn chế đang còn tồn tại trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn vừa qua, cần phải tìm hiểu về nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. Hoạt động của các ngân hàng đang tồn tại những yếu kém là do sự tác động của những nhân tố khách quan và chủ quan sau:
2.4.3.1 Môi trường kinh tế vĩ mô
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào trạng thái đình trệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, chỉ tiêu lạm phát tăng cao, chỉ số hàng tồn kho tăng mạnh… Nền kinh tế vĩ mô đầy bất ổn đã kéo theo những hệ lụy trong hoạt động của các ngân hàng thương mại như mặt bằng lãi suất tăng cao, cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng căng thẳng về thanh khoản, chất lượng các khoản tín dụng ngày càng thấp do khó khăn trong quá trình hoạt động…
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Khả Năng Sinh Lời Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Giai Đoạn 2007 – 2012.
- Kiểm Định Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Khả Năng Sinh Lời Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Giai Đoạn 2007 – 2012 Bằng Mô Hình Định Lượng
- Mô Hình Ước Lượng (Roa) Bảng 2.4: Kết Quả Hồi Quy (Roa)
- Giải Pháp Trong Việc Ứng Dụng Công Nghệ Kỹ Thuật
- Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 11
- Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Bên cạnh đó, việc điều hành các chính sách vĩ mô trong giai đoạn vừa qua còn nhiều bất cập, thể hiện thông qua sự thiếu nhất quán trong việc xác định mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô, đã làm cho các ngân hàng hoạt động thiếu ổn định, khả năng dự báo thấp…
2.4.3.2. Môi trường pháp lý
Hệ thống pháp luật nước ta chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, mẫu thuẫn và tồn tại nhiều kẽ hở nên gây khó khăn trong việc kiểm soát các hoạt động của ngành ngân hàng. Điều này được thể hiện qua sự tồn tại của “sở hữu chéo” trong hoạt động ngân hàng hiện nay. Mặc dù đã có nhiều văn bản để hạn chế tình trạng “sở hữu chéo” trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, thông tư 13/2010/TT-NH NN nhằm hạn chế tình trạng lũng đoạn hoạt động ngân hàng nhưng trong thực tế vẫn xảy ra tình trạng một người sở hữu tỷ lệ lớn hơn so với quy định, thực hiện hành vi mang tính chất lũng đoạn hoạt động ngân hàng, gây bất ổn cho tính ổn định của hệ thống. Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn tồn tại một số vướng mắc khi việc xử lý tài sản bảo đảm trong thực tế thường khá khó khăn, tốn kém thời gian, chi phí do sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật khiến ngân hàng lúng túng trong quá trình xử lý…
2.4.3.3 Hoạt động thanh tra, giám sát, điều hành hệ thống ngân hàng thương mại của Ngân hàng Nhà nước
Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể trong giai đoạn vừa qua, nhưng hoạt động thanh tra giám sát, điều hành của Ngân hàng Nhà nước vẫn còn tồn tại một số hạn chế như sau: (1) Khả năng kiểm soát các ngân hàng còn chưa tốt thể hiện qua việc bản thân Ngân hàng Nhà nước cũng không nắm được chính xác tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại là bao nhiêu hay không quản lý được tình trạng sở hữu chéo, các nhóm lợi ích thao túng hoạt động ngân hàng; (2) chưa sử dụng các công cụ thị trường mà mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng mệnh lệnh hành chính trong việc điều hành hoạt động của các ngân hàng thương mại; (3) việc phối hợp thanh tra, giám sát với các cơ quan ban ngành có liên quan còn chưa cao; (4) Ngân hàng Nhà nước chưa phát huy hết quyền lực, hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm và rủi ro trong hoạt động tín dụng của các
TCTD, nhất là các quy định về hạn chế cấp tín dụng và việc đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
2.4.3.4 Tính cạnh tranh trên thị trường
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là việc tồn tại quá nhiều các ngân hàng thương mại với nhiều quy mô khác nhau nhưng phần lớn đều tập trung vào một phân khúc thị trường như nhau. Các ngân hàng thương mại, mặc dù đã có những thay đổi, gia tăng tiện ích đi kèm đối với các sản phẩm truyền thống như huy động vốn, cho vay, nhưng phần lớn vẫn chưa thực sự tạo ra được sự khác biệt. Để cạnh tranh, các ngân hàng thương mại vẫn chủ yếu sử dụng công cụ lãi suất, thể hiện qua cuộc đua lãi suất huy động nhằm tìm kiếm nguồn vốn huy động, hay sẵn sàng hạ chuẩn cho vay để mở rộng quy mô hoạt động tín dụng… Những ví dụ như trên đã chứng minh cho sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, kéo theo đó khả năng sinh lời của các ngân hàng cũng bị ảnh hưởng nhất định bởi những chi phí, rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu. Tương tự, đối với các sản phẩm phi tín dụng, phần lớn các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa khai thác tốt tiềm năng của các sản phẩm, dịch vụ phi tín dụng. Mặc dù các ngân hàng đã đầu tư công nghệ, triển khai thêm hàng loạt các dịch vụ tiện ích mới như Internet banking, SMS banking và một số tiện ích trong sử dụng thẻ… nhưng các khoản thu phi lãi vẫn chưa chiếm tỷ trọng cao trong nguồn thu của các ngân hàng.
2.4.3.5 Năng lực quản lý, điều hành của các ngân hàng thương mại
Hoạt động quản trị ngân hàng còn nhiều bất cập, trong đó có hai vấn đề đáng chú ý gồm: cơ cấu tổ chức thiếu tính tập trung làm tăng chi phí hoạt động và quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại còn kém.
Đầu tiên, vấn đề cơ cấu tổ chức thiếu tính tập trung được thể hiện thông qua việc các ngân hàng phát triển mạng lưới hoạt động quá dày đặc. Mặc dù, với đặc điểm là trung gian tài chính, việc phát triển mạng lưới là điều cần thiết, nhưng nếu phát triển theo hướng “Loạn mô hình tổ chức các ngân hàng” thì rò ràng sẽ làm tăng chi phí hoạt động, từ đó ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thươg mại. Có 3 vấn đề còn tồn tại trong cơ cấu tổ chức của các ngân hàng thương mại thời gian qua: (1) Quá nhiều phòng giao
dịch được tổ chức như một chi nhánh; (2) Mạng lưới điểm giao dịch quá dày đặc; (3) Có sự chồng chéo, thiếu tính toán về vấn đề hiệu quả trong việc mở các chi nhánh khi chi nhánh ở khu vực này lại mở phòng giao dịch ở các địa bàn khác. Điều này cho thấy các ngân hàng thương mại hiện nay đang phải gánh một khoản chi phí đáng kể để duy trì bộ máy cồng kềnh mà hiệu quả thu về lại không cao như chi phí bỏ ra. Bên cạnh đó, khả năng quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn vừa qua. Các nhà quản trị ngân hàng vẫn tập trung chủ yếu vào việc tăng trưởng tín dụng, thiếu sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, thể hiện qua việc tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong giai đoạn nghiên cứu. Bản thân hệ thống quản trị, kiểm soát, kiểm toán nội bộ các ngân hàng thương mại còn tồn tại nhiều sơ hở, chưa kịp thời phòng ngừa ngăn chặn các hành vị vi phạm.
2.4.3.6 Ứng dụng công nghệ thông tin
Yếu tố khoa học – kỹ thuật – công nghệ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại. Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động đã được các ngân hàng thương mại chú trọng thực hiện. Phần lớn các ngân hàng thương mại hiện nay đều đã sử dụng hệ thống Corebanking (hệ thống quản trị ngân hàng tập trung) nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ, giúp hiện đại hóa hệ thống thanh toán, đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng trong giao dịch. Ngân hàng Nhà nước cũng đã tin học hóa toàn bộ hệ thống dữ liệu của hệ thống, kết nối thông tin của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó góp phần vào cơ sở hoạch định và thực thi chính sách quản lý. Tuy nhiên, theo đánh giá của World Bank, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng của nước ta hiện vẫn còn ở mức thấp kém, thể hiện qua chỉ số công nghệ ngân hàng Việt Nam mới chỉ đạt (-0.47), trong khi Trung Quốc là (-0.35), Thái Lan (-0.07)…. Nguyên nhân là do tốc độ phát triển công nghệ thông tin còn chậm, chưa đồng đều giữa
các ngân hàng thương mại và thiếu chuẩn mực nên việc liên kết các hệ thống với nhau trong quá trình hợp tác khai thác dịch vụ còn nhiều khó khăn.
2.4.3.7 Trình độ, chất lượng nhân viên ngân hàng
Trình độ và chất lượng nhân viên ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều đáng buồn là trong giai đoạn vừa qua, hàng loạt các vụ án lớn, các khoản nợ xấu phát sinh là do nhân viên thực hiện sai quy trình, quy chế gây hậu quả nghiêm trọng. Điều này cho thấy vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động ngân hàng thương mại cần phải có những thay đổi trong thời gian tới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Việc phân tích các chỉ số tài chính chỉ ra rằng khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2012 biến động khá mạnh, cụ thể, tăng mạnh trong năm 2009, 2010 nhưng sụt giảm trong giai đoạn 2011 – 2012. Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam, việc gia tăng lượng vốn điều lệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng quy mô tài sản, đầu tư vào công nghệ thông tin… Tuy vậy, hiện nay các ngân hàng thương mại mới chỉ tập trung vào các hoạt động thu lãi, chưa khai thác hết tiềm năng hoạt động khi tỷ lệ thu nhập ngoài lãi ở mức khá thấp. Chất lượng tài sản, đặc biệt nợ xấu đang trở thành một trong những vấn đề ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại trong giai đoạn tới nếu không có hướng xử lý đặc biệt. Nói tóm lại, khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại cho thấy phụ thuộc rất lớn vào quy mô vốn, chất lượng của tài sản, khả năng kiểm soát chi phí/doanh thu của các ngân hàng thương mại cũng như những biến động vĩ mô của nền kinh tế.
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
Nhận diện được những vấn đề bất ổn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2011 đến năm 2015. Mục tiêu đến năm 2015 chính là tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính, củng cố năng lực hoạt động, cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng, đồng thời nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Cụ thể:
- Kiểm soát chất lượng tín dụng, tập trung xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, kéo tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và chuẩn mực kế toán Việt Nam.
- Nâng cao năng lực tài chính của các TCTD bằng cách tăng vốn để đảm bảo đủ
mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel II, mở rộng nguồn vốn huy động…
- Tiến hành cơ cấu toàn diện về hoạt động, quản trị của các TCTD phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế tiên tiến theo nhiều hình thức, biện pháp và lộ trình khác nhau phù hợp với đặc điểm của từng TCTD.
Sau khi giai đoạn tái cấu trúc, mục tiêu dài hạn hướng đến trong chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam đến năm 2020 là xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại phát triển ổn định, đa dạng theo chiều sâu, ngày càng đóng vai trò và ảnh hưởng quan trọng đối với nền kinh tế trong nước, khu vực và thế giới, đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của nền kinh tế về các sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Để đạt được mục tiêu đề ra, một trong những vấn đề quan trọng các ngân hàng thương mại phải thực hiện chính là nâng cao khả năng sinh lời của mình để từ đó nâng cao năng lực tài chính, phát triển bền vững và ổn định.
3.2 GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Kết quả nghiên cứu định tính và định lượng cho thấy khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam tăng cùng chiều với tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản và quy mô tổng tài sản. Bên cạnh đó, tỷ lệ chi phí/doanh thu cũng như tỷ lệ nợ xấu đang có tương quan ngược chiều với khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, các nhân tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như lạm phát cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại. Dựa trên kết quả này, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nợ xấu, kiểm soát chi phí, đồng thời mở rộng quy mô, tăng khả năng đảm bảo về vốn và một số các giải pháp bổ sung khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại trong thời gian tới.
3.2.1 Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại cổ phần
3.2.1.1 Xử lý nợ xấu
Như đã phân tích, nhân tố nợ xấu là một trong những nhân tố có không những chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn, bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại cần ưu tiên hàng đầu cho việc giải quyết nợ xấu. Tiến trình giải quyết được đề xuất như sau: các ngân hàng thương mại cần đánh giá lại chất lượng tài sản nói chung, các khoản cho vay nói riêng theo tiêu chuẩn quốc tế để đánh giá thực chất mức độ nghiêm trọng của nợ xấu tại ngân hàng để có hướng xử lý phù hợp cho từng khách hàng. Việc ra đời của công ty quản lý nợ xấu VAMC là điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại giảm nợ xấu thông qua việc bán lại các khoản nợ xấu cho VAMC. Giảm nợ xấu sẽ giúp ngân hàng tiết kiệm được các khoản chi phí liên quan đến trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại.
3.2.1.2 Hoàn thiện cơ chế quản trị rủi ro tín dụng
Cho vay luôn chiếm tỷ trọng cao trong danh mục tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhưng đây lại là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, ngoài việc xử lý những khoản nợ xấu hiện có, ngân hàng cần có những biện pháp phù hợp để hạn chế việc phát sinh các khoản nợ xấu mới. Muốn đạt được điều này, các ngân hàng cần chú trọng hơn nữa đến công tác quản trị rủi ro tín dụng:
- Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp với từng giai đoạn của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn thực hiện chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ nới lỏng là thời kỳ các ngân hàng chú trọng mở rộng cho vay làm cho tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Để hạn chế điều này, các ngân hàng cần xây dựng một quy trình chặt chẽ trong việc cấp tín dụng ở mọi thời kỳ của nền kinh tế. Việc xếp hạng tín nhiệm nội bộ cần phải được hoàn thiện theo hướng bổ sung thêm các yếu tố định tính, định lượng cũng như tiến hành xếp hạng tín nhiệm bất thường nhằm đánh giá khách hàng chính xác hơn, nhận diện sớm rủi ro và có biện pháp xử lý kịp thời.
- Cần quan tâm xây dựng danh mục cho vay theo phương pháp chủ động. Hiện nay, các ngân hàng thương mại mới chỉ dừng lại ở việc quản trị danh mục cho vay theo phương pháp thụ động. Nói cách khác, các ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc định hướng ưu tiên cho một vài loại tài sản cho vay nhưng chưa cơ cấu hóa tỷ trọng của các loại tài sản cũng như không xác định hạn mức theo ngành, theo khu vực. Điều này làm cho mức độ ổn định của danh mục cho vay còn thấp, dễ bị tác động bởi nhu cầu của thị trường. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa xây dựng được mô hình đo lường rủi ro nội bộ nên việc định lượng chính xác mức độ rủi ro danh mục để có giải pháp quản trị thích hợp còn nhiều hạn chế. Do đó, trong thời gian tới, tác giả kiến nghị các ngân hàng nên ứng dụng các mô hình đo lường rủi ro trong danh mục cho vay như mô hình vỡ nợ hoặc mô hình ma trận để nhanh chóng xác định rủi ro, đưa ra giải pháp khắc phục kịp thời, phù hợp.