Mô Hình Kiểm Định Ảnh Hưởng Của Hình Thức Sở Hữu Nhà Nước Đến Tỷ Suất Sinh Lời Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam


30.00%

25.00%

20.00%

15.00%

10.00%

5.00%

0.00%

2007

2008

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

2009

2010

Ảnh hưởng của hình thức sở hữu nhà nước đến tỷ suất sinh lời của các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 6

2011

2012

2013

2014

ROE trung bình (*)

ACB

Eximbank

MB

Sacombank

(*) ROE trung bình được tính dựa vào trọng số theo tổng tài sản (Nguyễn Minh Huệ, 2012)

Đồ thị 3.6 ROE của môt số NHTMCP năm 2007 – 2014

Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp

Giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2014, trước tình hình khó khăn của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, ROE của các NHTMCP có nhiều biến động và có xu hướng giảm.

Năm 2008, ROE các ngân hàng và ROE trung bình giảm mạnh so với năm 2007. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành ngân hàng một mặt phải đối phó với các khó khăn từ thực trạng tình hình kinh tế, một mặt chịu sự chi phối từ các chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách điều hành lãi suất, tiền tệ của Chính phủ. Trong tình hình các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, chất lượng tín dụng kém đi đồng thời tiền tệ, tín dụng thắt chặt, các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Tuy nhiên ACB đã khẳng định được sự phát triển bền vững của mình bằng cách tiếp tục duy trì vị trí hàng đầu và bỏ xa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, ROE của ACB đạt đến 28.46%. Đối với 3 NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ


phần chi phối lớn nhất, ngoại trừ Vietcombank có ROE giảm thì 2 ngân hàng còn lại là Vietinbank và BIDV đều có ROE tăng so với năm 2007. Điều này cho thấy tầm quan trọng của quy mô đối với hoạt động của các ngân hàng. Các ngân hàng có tổng tài sản lớn, vẫn giữ nguyên vị trí của mình qua cuộc khủng hoảng kinh tế 2008. Trong khi đó hầu hết các ngân hàng Ngành ngân hàng nhỏ đều chịu ảnh hưởng.

Giai đoạn từ 2009-2010, ROE chuyển biến theo chiều hướng tích cực. ROE trung bình từ 13.71% năm 2007 tăng đến 16.12% năm 2009 và đạt 16.49% năm 2010. Sau khủng hoảng năm 2008, năm 2009 NHNN đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ nền khinh tế vượt qua đại suy thoái đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống Ngân hàng. Đặc biệt là sự tăng trưởng vượt bậc của Vietcombank, ROE đạt 23.47%.

Giai đoạn từ 2011-2013, ROE của các NHTMCP sụt giảm nghiêm trọng. ROE trung bình từ 16.05% năm 2011 chỉ còn 9.12% năm 2013. Trong đó đáng lưu ý là sự giảm sút của các NHTMCP được đánh giá là hoạt động tốt trước đây như ACB, Sacombank, Eximbank. Các NHTMCP do nhà nước nắm cổ phần chi phối cũng cho ROE giảm mạnh trong giai đoạn này. Kết quả này phản ánh chính xác thực tế khi kể từ năm 2011, ngành ngân hàng bước vào suy thoái và khủng hoảng, tỷ lệ nợ xấu tăng cao.

Sang năm 2014, nhờ kết quả bước đầu của quá trình tái cơ cấu với những biện pháp cứng rắn làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng cùng những thương vụ mua bán, sáp nhập xử lý những ngân hàng yếu kém, ROE trung bình tăng nhẹ đạt 9.46%. Năm 2014 ROE của nhóm NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối đều cao hơn các ngân hàng thương mại cổ phần. Nhưng về riêng lẻ, ROE ở một vài ngân hàng cổ phần hiệu quả như MB vẫn tốt hơn.

Qua phân tích về thực trạng hình thức sở hữu và tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam thì ta thấy có sự khác biệt về ROE của các NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối với các NHTMCP khác. Như vậy việc nhà nước nắm giữ cổ phần chì phối tại các NHTMCP có thể có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của ngân hàng.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Chương 3 trình bày thực trạng về hình thức sở hữu và tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam. Các NHTMCP Việt Nam có các hình thức sở hữu đa dạng bao gồm: sở hữu nhà nước, cổ đông nước ngoài, sở hữu giữa các ngân hàng với nhau, sở hữu bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tư nhân. Luận văn tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của hình thức sở hữu nhà nước đến tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam. Thực trạng tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam được đo lường bằng ROE. Giai đoạn từ 2007-2014, ROE có xu hướng giảm qua các năm. Nhờ lợi thế về quy mô năm 2014, các NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối có ROE cao hơn đa số NHTMCP khác. Tuy nhiên so sánh các NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối với các NHTMCP lớn trong một khoảng thời gian dài hơn, chúng ta nhận thấy một bức tranh khác. Từ năm 2007 đến năm 2011, phần lớn các NHTMCP đều có tỷ lệ ROE cao hơn. Qua phân tích thực trạng hình thức sở hữu và tỷ suất sinh lời của các NHTMCP cho thấy sở hữu nhà nước có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của ngân hàng.


CHƯƠNG 4: MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA HÌNH THỨC SỞ HỮU NHÀ NƯỚC ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM


Chương 3 đã trình bày về thực trạng hình thức sở hữu và tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam, đặc biệt là về sở hữu nhà nước tại các NHTMCP Việt Nam. Để hiểu rò hơn về ảnh hưởng của sở hữu nhà nước đến tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam, nội dung chương 4 trình bày mô hình kiểm định ảnh hưởng của hình thức sở hữu nhà nước đến các NHTMCP Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2014.

4.1 Giả thiết nghiên cứu

Cornett và cộng sự (2008) nhận định các Ngân hàng thương mại nhà nước tại khu vực Đông Á, và Nam Á kém hiệu quả hơn các Ngân hàng thương mại tư nhân, và còn chỉ ra rằng các Ngân hàng thương mại nhà nước càng trở nên thua kém các Ngân hàng thương mại tư nhân kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á vào 1997-1998, và sự xuống cấp này được nhìn nhận rò ràng hơn tại các quốc gia mà sự can thiệp của chính phủ rò nét hơn. Tương tự, các nghiên cứu của Mian (2003), Iannotta và cộng sự (2007), Olson và Zoubi (2011), Dietrich và Wanzenried (2014) cũng cho thấy các ngân hàng sở hữu tư nhân hoạt động hiệu quả hơn các ngân hàng sở hữu nhà nước ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Ngoài ra cũng có một số ít nghiên cứu cho kết quả ngược lại như Bhattacharyya và cộng sự (1997), Altunbas và cộng sự (2011) khi chỉ ra các Ngân hàng thương mại nhà nước hoạt động hiệu quả hơn các Ngân hàng thương mại tư nhân.

Tại Việt Nam, một số nghiên cứu về hình thức sở hữu đã được thực hiện như nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thanh và Nguyễn Tấn Hùng (2011), Phạm Hoàng Ân và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2013). Các nghiên cũng đã tìm ra được ảnh hưởng của hình thức sở hữu đến lợi nhuận ngân hàng. Cụ thể Nguyễn Ngọc Thanh và Nguyễn Tấn Hùng (2011) cũng cho rằng các NHTM có sở hữu nhà nước nhìn chung là hoạt động kém hiệu quả hơn các NHTMCP, bên cạnh đó cùng kết quả nghiên cứu tương tự Phạm Hoàng Ân


và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2013) đã chỉ ra rằng các NHTM có sở hữu nhà nước có tỷ lệ thu nhập lãi cận biên thấp hơn các NHTMCP.

Mặc dù các kết quả về ảnh hưởng của hình thức sở hữu nhà nước đến tỷ suất sinh lời của NHTM trái chiều nhau, nhưng phần lớn các kết quả cho rằng NHTM có sở hữu nhà nước hoạt động kém hơn. Do vậy, dựa trên các bài nghiên cứu trước luận văn đặt ra giả thiết hình thức sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam. Cụ thể là:

Giả thiết nghiên cứu: NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối có tỷ suất sinh lời thấp hơn các NHTMCP.‌

4.2 Mô hình và phương pháp nghiên cứu

4.2.1 Mô hình nghiên cứu

Dựa vào mô hình nghiên cứu trước đây của Molyneux và Thornton (1992) và Athanasoglou (2008), cùng nhiều nghiên cứu khác. Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng của hình thức sở hữu nhà nước đến tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam đề xuất mô hình ước lượng tổng quát theo phương trình hồi quy tuyến tính như sau:

𝑅𝑂𝐸𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝑂𝑊𝑁𝑖𝑡 + 𝛽2 𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡 + 𝛽3 𝑂𝐶𝑖𝑡 + 𝛽4 𝐶𝑅𝑖𝑡 + 𝛽5 𝐶𝐴𝑖𝑡 + 𝛽6 𝐿/𝐴𝑖𝑡

+ 𝛽7 𝐷𝑂𝑃𝑖𝑡 + 𝛽8 𝐺𝐷𝑃𝑖𝑡 + 𝛽9𝐶𝑃𝐼𝑖𝑡 + 𝑢𝑖𝑡

Trong đó: 𝑅𝑂𝐸𝑖,𝑡 : là ROE của ngân hàng thứ i tại năm thứ t,

𝑂𝑊𝑁𝑖𝑡 , 𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡 , 𝑂𝐶𝑖𝑡 , 𝐶𝑅𝑖𝑡 , 𝐶𝐴𝑖𝑡 , 𝐿/𝐴𝑖𝑡 , 𝐺𝐷𝑃𝑖𝑡 , 𝐷𝑂𝑃𝑖𝑡 , 𝐶𝑃𝐼𝑖𝑡 : lần lượt là các nhân tố của ngân hàng thứ i tại năm thứ t

𝑢𝑖𝑡 : sai số của ngân hàng thứ i tại năm thứ t, đại diện cho các nhân tố chưa được đưa và mô hình.

Với i = 1,...,N (N = 20), t = 1,…,T (T = 8, từ năm 2007 đến năm 2014) Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một vấn đề thống kê thực nghiệm tồn tại khi nghiên cứu tỷ suất sinh lời của NHTM, đó là yếu tố nội sinh (endogeneity) trong các mô hình hồi quy. Theo Garcia-Herrero & cộng sự (2009), vấn đề nội sinh luôn hiện hữu trong các khảo sát thực nghiệm hiện có khi đánh giá những nhân tố quyết định đến tỷ


suất sinh lời của NHTM. Cụ thể, họ cho rằng các biến kinh tế tác động đến hoạt động ngân hàng thường mang tính nội sinh khi chúng tác động qua lại lẫn nhau (causal relationship) cũng như việc luôn tồn tại những biến số không được quan sát (unobserved variables), khiến các kết quả hồi quy nhiều khi bị sai lệch khi ước lượng. Hiệu quả kinh doanh của NHTM bị ảnh hưởng bởi các cú sốc kinh tế vĩ mô hoặc các biến động trong khu vực có quan hệ tiếp nối nhau (Berger và cộng sự, 2000). Do đó, bài nghiên cứu sử dụng mô hình động, trong đó sử dụng một biến phụ thuộc có độ “trễ” một thời kì (lagged dependent variable) làm biến độc lập trong mô hình (Athanasoglou, 2008) như sau:

𝑅𝑂𝐸𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛿𝑅𝑂𝐸𝑖,𝑡−1 + 𝛽1𝑂𝑊𝑁𝑖𝑡 + 𝛽2𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡 + 𝛽3 𝑂𝐶𝑖𝑡 + 𝛽4 𝐶𝑅𝑖𝑡 + 𝛽5 𝐶𝐴𝑖𝑡

+ 𝛽6 𝐿/𝐴𝑖𝑡 + 𝛽7 𝐷𝑂𝑃𝑖𝑡 + 𝛽8 𝐺𝐷𝑃𝑖𝑡 + 𝛽9𝐶𝑃𝐼𝑖𝑡 + 𝑢𝑖𝑡

Biến phụ thuộc (ROE)

Dựa vào nghiên cứu của Goddard và cộng sự (2004), Rokwaro (2013) luận văn sử dụng biến phụ thuộc đo lường tỷ suất sinh lời của ngân hàng là tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE). ROE được đo lường bằng cách lấy lợi nhuận ròng của ngân hàng chia cho vốn chủ sở hữu.

Biến độc lập (OWN)

Để nghiên cứu ảnh hưởng của sở hữu nhà nước đến tỷ suất sinh lời ngân hàng Athanasoglou (2008), Olson và Zoubi (2011), Dietrich và Gabrielle Wanzenried (2014) đã đưa vào mô hình biến giả như sau: 1: ngân hàng sở hữu nhà nước và ngược lại là 0. Theo đó, OWNER là biến giả được đưa vào mô hình nghiên cứu của bài luận văn, OWNER nhận giá trị bằng 1 nếu là NHTMCP do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối và giá trị bằng 0 nếu là NHTMCP do các cổ đông khác nắm giữ.

Biến kiểm soát

Quy mô ngân hàng (SIZE)

Emery (1971), Akhavein và cộng sự (1997), Bourke (1989), Molyneux và Thornton (1992), Bikker và Hu (2002), Goddard (2004) đã tìm ra mối tương quan dương giữa quy mô của Ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Kết quả nghiên cứu được giải thích rằng


các ngân hàng có quy mô lớn sẽ có lợi thế huy động nên sẽ có nguồn vốn giá rẻ hơn, giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh.

Theo Athanasoglou (2008) sự tăng trưởng quy mô đã được chứng minh là có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lời, nghiên cứu chỉ ra sự phân bổ của quy mô tài sản thường phân phối lệch. Do vậy trong bài luận văn này quy mô ngân hàng được tính bằng cách cứu dùng logarit tự nhiên tổng tài tài sản thay vì sử dụng tổng tài sản để giảm hiệu ứng của quy mô. Biến này phản ánh các lợi ích liên quan đến lợi thế về quy mô.

Chi phí hoạt động (OC)

Bài luận văn sử dụng tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động để nghiên cứu ảnh hưởng của chi phí đến tỷ suất sinh lời của các NHTMCP Việt Nam. Tác động của chi phí hoạt động đã được tìm ra bởi các nghiên cứu trước đây như Alexiou và Sofoklis (2009), Dietrich và Wanzenried (2011)…

Rủi ro tín dụng (CR)

Rủi ro tín dụng là rủi ro khi khách hàng không có khả năng chi trả được nợ cho ngân hàng khi đến hạn phải thanh toán. Theo lý thuyết đã nêu ra thì rủi ro tín dụng càng tăng sẽ làm giảm tỷ suất sinh lời của ngân hàng. Bài nghiên cứu sử dụng tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay trên dư nợ cho vay (Dietrich và Wanzenried (2009), Trujiloo-Ponce (2013). Tỷ lệ này nhỏ thì chứng tỏ rủi ro tín dụng của ngân hàng được dự đoán là thấp.

Vốn chủ sở hữu (CAP)

Được đo lường bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (Athanasoglou, 2008). Tỷ lệ này cho thấy bao nhiêu tài sản của ngân hàng được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao làm giảm rủi ro của vốn, chi phí phá sản dự kiến thấp như vậy tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu sẽ tăng tỷ suất sinh lời. Tuy nhiên tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao sẽ không tận dụng được lợi thế từ đòn bẩy tài chính, tức là giảm tỷ lệ vốn chủ sở hữu thì tỷ suất sinh lời sẽ tăng.

Theo Berger (1995) với mô hình một giai đoạn trong thị trường vốn hoàn hảo và thông tin là cân xứng thì có mối quan hệ nghịch biến giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu và tỷ suất


sinh lời của ngân hàng. Athanasoglou (2008) đã phát triển kết quả nghiên cứu trên bằng cách mở rộng các giả thuyết nền tảng. Đầu tiên, mở rộng giả thuyết thị trường vốn hoàn hảo cho phép một sự gia tăng trong nguồn vốn làm tăng thu nhập kỳ vọng. Tác động cùng chiều này có thể là do nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn có sẵn để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vì thế, vốn chủ sở hữu đóng vay trò như là một tấm chắn an toàn trong trường hợp tình hình phát triển của ngân hàng gặp bất lợi. Mối liên hệ kỳ vọng cùng chiều của vốn chủ sở hữu và tỷ suất sinh lời của Ngân hàng đã có thể được khẳng định chắc chắn bởi hoạt động M&A ngân hàng đã xảy ra và một số lượng lớn nguồn vốn đã đưuọc ngân hàng huy được từ thị trường chứng khoán. Thứ hai, mở rộng giả thuyết về mô hình một giai đoạn làm phát sinh ra một khía cạnh khác, bởi vì việc gia tăng thu nhập kỳ này sẽ làm gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu kỳ sau. Cuối cùng, là sự mở rộng về giả thuyết thông tin thị trường là cân xứng cho phép ngân hàng có tỷ suất sinh lời tốt sẽ truyền thông tin đáng tín cậy đó ra bên ngoài thông qua nguồn vốn cao hơn. Qua tất cả các lập luận trên thì nhân tố tỷ lệ vốn chủ sở hữu nên được đưa vào mô hình như một biến nội sinh.

Cấu trúc tài sản (L/A)

Để đánh giá tác động của cấu trúc tài sản đến tỷ suất sinh lời của Ngân hàng thương mại, luận văn sử dụng tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản. Các tài liệu đã cho thấy lợi nhuận ngân hàng sẽ tăng nếu danh mục tài sản gồm các khoản cho vay tăng dẫn đến tỷ suất sinh lời tăng. Việc nắm giữ tài sản này làm cho chi phí tăng nhưng đồng thời lợi nhuận ngân hàng cũng tăng Trujillo-Ponce (2013), Syafri (2012).

Tiền gửi của khách hàng (DEP)

Nghiên cứu của Trujillo-Ponce (2013) đối với 89 NHTM Tây Ban Nha giai đoạn 1999-2000 đã tìm thấy mối tương quan thuận giữa tỷ lệ tiền gửi của khách hàng trên tổng nợ phải trả và tỷ suất sinh lời của ngân hàng. Tiền gửi của khách hàng được xem là nguồn vốn huy động có chi phí thấp nhất và ổn định, nếu ngân hàng có tỷ lệ này càng cao thì tỷ suất sinh lời càng cao.

Xem tất cả 90 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí