Ý Nghĩa Của Việc Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Của Nhtm


xuống. Tóm lại lạm phát có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến lợi nhuận ngân hàng.‌

1.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

1.3.1. Lý luận nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh

Nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay.

Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Song khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình.

Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.

1.3.2. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế-xã hội phát triển và là công cụ hữu hiệu để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Các ngân hàng hoạt động kinh doanh hiệu quả sẽ đem lại nhiều ý nghĩa:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

- NHTM là một trung gian tài chính với chức năng lưu thông tiền tệ . Các NHTM hoạt động hiệu quả sẽ góp phần làm cho quá trình lưu thông tiền tệ trở nên dẽ dàng hơn , thúc đẩy quá trình tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế xã hội phát triển.

- NHTM hoạt động hiệu quả thì tạo nên sự tin tưởng của công chúng góp phần dễ dàng hơn cho hoạt động huy động của ngân hàng, đồng thời hoạt động tín dụng trở nên hiệu quả hơn , cung ứng vốn tín dụng và các dịch vụ với chi phí thấp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - 4

- NHTM hoạt động có hiệu quả , có điều kiện để ngày càng nâng cao trình độ , hiện đại hóa công nghệ , nâng cao năng lực cạnh tranh đủ sức cạnh tranh với các định chế tài chính nước ngoài , tiếp cận và hội nhập với thị trường tài chính quốc tế.

-NHTM hoạt động có hiệu quả giúp cho việc điều hành các chính sách tiền tệ của NHNN cũng trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn

1.4. Mô hình nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương Việt Nam

1.4.1. Tổng quan về các công trình nghiên cứu Các công trình nghiên cứu của nước ngoài

Syafri ,2012, “Factors Affecting Bank Profitability in Indonesia”mục đích của bài nghiên cứu này là phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại ở Indonesia. Loại dữ liệu được sử dụng là dữ liệu thu thập được từ các ngân hàng thương mại niêm yết trên sàn chứng khoán Indonesia từ năm 2002 đến năm 2011. Lợi nhuận ngân hàng được đo bằng tỷ số thu nhập trên tổng tài sản (ROA). Kỹ thuật phân tích sử dụng là dữ liệu hợp nhất từ mô hình hồi quy. Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản ,chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ tác động tích cực đến lợi nhuận, trong khi tỷ lệ lạm phát, quy mô của ngân hàng và chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động( BOPO) có tác động tiêu cực đến lợi nhuận. Tốc độ


tăng trưởng kinh tế và mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh không có tác động lên lợi nhuận ngân hàng.

Muhammad Farhan Akhtar , Khizer Ali and Shama Sadaqat , 2011, “Factors Influencing the Profitability of Conventional Banks of Pakistan” Dữ liệu được sử dụng trong bài nghiên cứu được lấy từ các ngân hàng thương mại ở Pakistan trong giai đoạn 2006-2009 sử dụng mô hình thực nghiệm . Để giải thích cho sự duy trì lợi nhuận, bài viết này đã sử dụng phân tích hồi quy nhiều chiều bằng cách xây dựng hai mô hình hồi quy. Kết quả ước lượng cho thấy các tỷ số vốn vay, tỷ lệ nợ xấu và tỷ số thu nhập hoạt động trên tổng tài sản có tác động quan trọng lên lợi nhuận của các ngân hàng thương mại trong cả hai mô hình.Trong khi đó quy mô ngân hàng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận khi sử dụng ROA làm biến đo lường lợi nhuận và ngược lại quy mô ngân hàng không có ý nghĩa với lợi nhuận khi ROE được sử dụng để đo lường lợi nhuận ngân hàng .

Deger Alper and Adem Anbar, 2011,”Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Commercial Bank Profitability: Empirical Evidence from Turkey”:Mục đích của nghiên cứu này là xem xét những nhân tố ngân hàng và nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng ở Thỗ Nhĩ Kỳ trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến năm 2010. Lợi nhuận ngân hàng được đo lường bằng tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE). Sử dụng nguồn dữ liệu thu thập được , kết quả chỉ ra rằng quy mô tài sản và thu nhập ngoài lãi có tác động tích cực và quan trọng lên lợi nhuận ngân hàng. Về phần những biến vĩ mô chỉ có lãi suất thực có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Những kết quả này đưa ra đề nghị rằng ngân hàng có thể cải thiện khả năng sinh lời của mình thông qua việc tăng quy mô ngân hàng , thu nhập ngoài lãi, giảm tỷ số rủi ro tín dụng trên tài sản. Thêm vào đó , lãi suất thực cao hơn có thể dẫn đến khả năng sinh lời cao hơn trước.

Richard S. Barr, Kory A. Killgo và Thomas F. Siems,1999, “Evaluating the productive efficiency performance of U.S. commercial banks” . Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bao (DEA) mô hình để đánh giá


hiệu quả sản xuất và hiệu suất của các ngân hàng thương mại Mỹ từ năm 1984 đến năm 1998. Qua nghiên cứu này tác giả tìm thấy mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất giữa hiệu suất và các yếu tố đầu vào và đầu ra, cũng như các phương pháp độc lập của hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tác động của sự thay đổi điều kiện kinh tế là trung gian cho một vài chừng mực bởi hiệu suất tương đối của các ngân hàng hoạt động trong những điều kiện này. Cuối cùng ,tác giả tìm thấy mối tương quan gần tồn tại giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính tốt được xác định bởi tổ chức xếp hạng ngân hàng.

Các công trình nghiên cứu trong nước

Luận án tiến sĩ “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng ến hiệu quả hoạt ộng của các ng n h ng thương mại ở Việt Nam” của Nguyễn Việt Hùng năm 2008. Trong luận án này, tác giả kết hợp phương pháp định tính và phương pháp định lượng gồm tiếp cận phân tích hiệu quả biên ( phân tích biến ngẫu nhiên SFA và phân tích bao dữ liệu DEA) và mô hình kinh tế lượng (Tobit) để đánh giá hiệu quả hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM ở Việt Nam.

Luận văn thạc sỹ: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2006-2009 của Liễu Thu Trúc và Vò Thành Danh. Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2006-2009 bằng cách sử dụng hai phương pháp phân tích tổng năng suất nhân tố và phương pháp phân tích dữ liệu . Kết quả chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động đang suy giảm và nguyên nhân chính là do yếu tố phi hiệu quả về mặt công nghệ. Những ngân hàng có quy mô lớn có lợi thế về chi phí hơn hẳn các ngân hàng có quy mô nhỏ. Các ngân hàng còn sử dụng lãng phí các đầu vào khoảng 7,7% và số lượng các ngân hàng đối mặt với hiệu suất giảm dần theo quy mô có xu hướng ngày càng ít đi.

1.4.2. Xây dựng mô hình

Để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng người ta có thể dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau như: ROA, ROE, NIM……ROE là hiệu suất sinh lời trên vốn


chủ sở hữu nó thể hiện một đồng vốn chủ sở hữu nhà đầu tư bỏ ra thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vì vậy chỉ tiêu này rất được các nhà đầu tư quan tâm. Còn dưới góc độ nhà quản trị thì ROA lại được quan tâm hơn bởi nó phản ánh một đồng tài sản mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Với mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng,thì lựa chọn chỉ tiêu ROA làm biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu là thích hợp nhất vì ROA là một công cụ đo lường lợi nhuận của ngân hàng tốt hơn, nó đo lường được lợi nhuận tạo ra từ các hoạt động sử dụng vốn và phản ánh hiệu quả quản lý của ngân hàng đối với việc sử dụng các nguồn lực đầu tư để tạo ra lợi nhuận, trong khi ROE chỉ phản ánh hiệu quả quản trị của ngân hàng trong việc sử dụng vốn cổ phần.

Các nghiên cứu trên thế giới về những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng đều sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính với dữ liệu bảng. Trong đề tài này, tác giả áp dụng mô hình đã được sử dụng phổ biến tại các quốc gia trên thế giới . Mô hình nghiên cứu tổng quát như sau:

ROA = βo+β1*X1+β2*X2+β3*X3+β4*X4+β5*X5+β6*X6+β7*X7+ β8*X8+

Theo đó ROA là tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản được tính bằng cách lấy thu nhập ròng chia cho tổng tài sản ( tính bằng %), logTA là logarit của tổng tài sản, LOAN/TA là dư nợ tín dụng trên tổng tài sản ( tính bằng %), TE/TA là vốn chủ sỡ hữu trên tổng tài sản (tính bằng %),LLP/TL là dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (tính bằng %), NII/TA là thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản (tính bằng %), BOPO là tổng chi phí hoạt động trên tổng thu nhập hoạt động(tính bằng %), INF là tỷ lệ lạm phát (tính bằng %), GR là tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính bằng %)

X1: Quy mô tài sản ngân hàng (Log TA)

Biến logTA được đo lường bằng cách lấy logarit tổng tài sản theo cơ số 10. Quy mô tài sản ngân hàng là biến độc lập được đưa vào mô hình nghiên bởi vì theo lý thuyết kinh tế vi mô một ngân hàng lớn có thể có lợi thế kinh tế nhờ quy mô do chi phí trung bình thấp hơn và điều này có tác động tích cực lên lợi nhuận ngân hàng, quy mô của ngân hàng càng lớn thì lợi nhuận càng tăng. Nhưng nếu quy mô ngân


hàng càng mở rộng hơn nữa thì bất lợi của lợi thế kinh tế về quy mô sẽ xuất hiện, ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn trong vấn đề quản lý và giám sát, chi phí hành chính tăng cao. Chính điều này sẽ làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Nghiên cứu của Sufia và Razali(2008) đã chỉ ra mối tương quan âm giữa quy mô và lợi nhuận. Ngược lại, Alper & Anbar (2011) and Gur, Irshad and Zaman (2011) đã tìm ra mối tương quan dương giữa quy mô ngân hàng và lợi nhuận.Vì vậy, trong đề tài này, kỳ vọng có thể có mối tương quan dương hoặc âm giữa log TA và ROA

X2: Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản (TL/TA)

Hoạt động của ngân hàng là huy động vốn từ những chủ thể thừa vốn và sử dụng nguồn vốn này để cấp tín dụng cho các chủ thể thiếu vốn trong nền kinh tế .Từ những hoạt động này ngân hàng sẽ có được thu nhập từ lãi vay. Dư nợ cho vay càng lớn, thu nhập lãi của ngân hàng càng nhiều và từ đó lợi nhuận của ngân hàng cũng sẽ tăng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng cũng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro. Khi tăng trưởng tín dụng tăng nhưng chất lượng tín dụng không được kiểm soát chặt chẽ thì khả năng thu hồi nợ của ngân hàng không được đảm bảo . Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra làm chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên do phải sử dụng nguồn trích lập dự phòng để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ không thu hồi được. Điều này sẽ làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Aper và Anbar (2011) đã chỉ ra mối tương quan nghịch giữa dư nợ cho vay và lợi nhuận, trong khi Gur, Irshad and Zaman (2011), Sufian (2011) đã công bố kết quả mối tương quan dương giữa dư nợ cho vay và lợi nhuận. Trong đề tài này, tôi kỳ vọng có thể có mối tương quan dương hoặc âm giữa TL/TA và ROA.

X3: Quy mô vốn chủ sỡ hữu (TE/TA)

Biến TE/TA được đo lường bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Biến này thể hiện mức độ an toàn vốn, sự ổn định và lành mạnh của một định chế tài chính. Nó chỉ ra khả năng của một ngân hàng trong việc hạn chế những tổn thất không mong muốn. Ngân hàng có vốn chủ sở hữu càng lớn thì càng có thể giảm được chi phí vốn, từ đó có thể tăng được khả năng sinh lời của mình . Hơn thế nữa, với một cấu trúc vốn mạnh, các ngân hàng có thể vượt qua được những cuộc khủng hoảng tài chính,


làm tăng uy tín của ngân hàng. Khi quy mô vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản thấp chứng tỏ ngân hàng đang sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, điều này hàm chứa nhiều rủi ro và có thể làm giảm lợi nhuận. Vì sử dụng nợ luôn có tính hai mặt, một mặt nó có thể khuyếch đại thu nhập cho chủ sỡ hữu, mặt khác nó có thể làm cho doanh nghiệp đối mặt với rủi ro tài chính, dẫn đến kiệt quệ tài chính có thể dẫn đến phá sản và đẩy thu nhập của chủ sở hữu xuống mức thấp nhất. Tuy nhiên Ali, Khizer, Akhtar (2011) đã đo lường mối tương quan âm giữa quy mô vốn chủ sỡ hữu và lợi nhuận ngân hàng. Việc tăng vốn chủ sở hữu không đồng thời với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ gây ra tình trạng thặng dư thanh khoản, hay nói cách khác là ngân hàng đang có tỷ lệ an toàn vốn quá cao. Điều này sẽ dẫn đến làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Các nghiên cứu của Gul, Irshad và Zaman (2011), đã tìm ra mối tương quan dương giữa giữa tỷ lệ vốn chủ sỡ hữu trên tổng tài sản với lợi nhuận ngân hàng. Trong đề tài, kỳ vọng có thể có mối tương quan dương giữa TE/TA và ROA.

X4: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (LLP/TL)

Rủi ro tín dụng là nguy cơ thâm hụt tài chính do khách hàng không thể thực hiện được nghĩa vụ thanh toán. Về cơ bản,rủi ro tín dụng có thể phát sinh từ những hoạt động của ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng và những hoạt động khác như:giao dịch,thị trường vốn. Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ thường được sử dụng như một biến để đo lường rủi ro tín dụng . Việc mở rộng các lĩnh vực ngân hàng sẽ có rủi ro cao, làm tăng rủi ro tín dụng và lợi nhuận các ngân hàng thu được sẽ thấp hơn. Vì vậy, tương quan giữa rủi ro tín dụng và lợi nhuận ngân hàng là tương quan nghịch. Các nghiên cứu của Sufian (2011), và Alper and Ambar (2011) đã kết luận mối tương quan nghịch giữa rủi ro tín dụng và lợi nhuận ngân hàng. Vì vậy, trong nghiên cứu này kỳ vọng tìm ra mối tương quan âm giữa LLP/TL và ROA

X5: Mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh (NII/TA)

Lợi nhuận ngân hàng có được từ hai nguồn: thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi. Thu nhập ngoài lãi bao gồm nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh, mua bán chứng khoản đầu tư, góp vốn, mua


cổ phần và các hoạt động kinh doanh khác. Tổng thu nhập ngoài lãi càng tăng thì mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao, nguồn thu nhập của ngân hàng không phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động truyền thống.

Mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh đoanh dược đo lường bằng tổng thu nhập ngoài lãi chia cho tổng tài sản. Tỷ số NII/TA càng cao thì lợi nhuận ngân hàng càng tăng. Nghiên cứu của Alper & Anbar (2011) và Sufian (2011) đã công bố kết quả tương quan thuận giữa mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và lợi nhuận. Đề tài này kỳ vọng có mối tương quan dương giữa NII/TA và ROA

X6: Chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động (BOPO)

Lợi nhuận ngân hàng có thể được cải tiến bằng cách sử dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong giao tiếp, thông tin và hoạt động.Việc sử dụng ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh đồng thời làm giảm tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng thu nhập. Điều này có tác động tích cực làm tăng lợi nhuận ngân hàng. Biến BOPO được đo lường bằng tỷ số tổng chi phí hoạt động chia cho thu nhập hoạt động. Nghiên cứu của Trujilo-Ponce (2010), Zeitun (2012) và Aleksiou & Sofoklis (2009) đã chỉ ra mối tương quan âm giữa tỷ lệ chi phí hoạt động với khả năng sinh lời trên tài sản.Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng tìm ra mối tương quan nghịch giữa BOPO và ROA.

X7: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GR)

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế cao phản ánh triển vọng kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp bao gồm cả ngân hàng. Khi kinh tế tăng trưởng cao nhu cầu tín dụng và dịch vụ ngân hàng gia tăng vì vậy ngân hàng thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GR) được đo lường bằng tốc độ GDP thực hàng năm. Trong các nghiên cứu của Gur, Irshad và Zaman (2011), Trujilo-Ponce (2012) và Zeitun (2012) đã chỉ ra mối tương quan thuận giữa tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên nghiên cứu của Ajadi và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022