Đối Với Nhân Tố Cổ Đông Nước Ngoài

Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

5.1 Kết luận

Dựa trên cơ sở những nhận xét chung ở trên về độ tin cậy BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy BCTC của các doanh nghiệp thực phẩm đồ uống niêm yết hiện nay, tác giả đề xuất một số kiến nghị với các đối tượng có liên quan và chia thành 2 mục tiêu chính đó là nhằm nâng cao độ tin cậy cũng như chất lượng BCTC và những điểm lưu ý đối với người sử dụng thông tin trên các BCTC.

Trên quan điểm tìm hiểu tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy BCTC của doanh nghiệp ngành thực phẩm và đồ uống từ 2010-2017, nghiên cứu vận dụng mô hình nghiên cứu định lượng để đo lường các yếu tố tác động. Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy Sự tham gia của người nước ngoài, Cổ đông lớn, Quy mô công ty, Cơ hội tăng trưởng, Chính sách cổ tức là các yếu tố có tác động đến độ tin cậy BCTC của doanh nghiệp ngành thực phẩm và đồ uống từ 2010-2017.

Giá trị R2 điều chỉnh= 42.88% điều này cho thấy các nhân tố đưa vào phân

tích giải thích được 42.88% tác động độ tin cậy của các doanh nghiệp thực phẩm đồ uống tại Việt Nam. Với giá trị R2 điều chỉnh hoàn toàn đủ giá trị tin cậy và chấp nhận trong điều kiện kinh doanh tại Việt Nam.

Như vậy, dựa trên cơ sở những nhận xét chung ở trên về các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy BCTC của doanh nghiệp ngành thực phẩm và đồ uống trên TTCK Việt Nam hiện nay, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao độ tin cậy cũng như chất lượng BCTC và những điểm lưu ý đối với người sử dụng thông tin trên các BCTC


5.2 Kiến nghị

Căn cứ vào kết quả của nghiên cứu, các công ty ngành thực phẩm đồ uống niêm yết và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán cần có một số lưu ý sau để có cân nhắc cho chính sách đầu tư, quản lý hiệu quả:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

5.2.1 Đối với nhân tố Cổ đông nước ngoài

Nếu tỷ lệ sở hữu vốn bởi nước ngoài càng cao thì độ tin cậy càng thấp, thì các doanh nghiệp cần có chính sách quản trị tốt hơn để tách biệt lợi ích của cổ đông và nhà quản lý nhằm giảm thiểu khả năng vì lợi ích cá nhân mà thông tin được đưa ra bị sai lệch;

Các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính của các công ty hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm đồ uống niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 10

Doanh nghiệp cần tăng cường các hoạt động giám sát, báo cáo các rủi ro của công ty, và đặc biệt là bảo đảm có chính sách, quy trình để thiết lập môi trường kiểm soát hiệu quả, trong đó có việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Hạn chế hành vi lạm quyền hay lợi dụng kẽ hở để mưu lợi riêng tư. Có những cơ chế, chính sách để nâng cao trách nhiệm của nhà quản lý, bổ nhiệm thành viên bên ngoài vào ban điều hành hay thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả. Giải pháp này sẽ làm tăng chi phí ràng buộc để thiết lập, giữ vững hoạt động của hệ thống (lý thuyết đại diện) và độ tin cậy trong BCTC được nâng cao, làm tăng khả năng các số liệu BCTC được dùng cho việc ra quyết định không chỉ bởi công chúng, mà cho cả chính lãnh đạo doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra cũng cần có chính sách để tiếp tục thu hút đầu tư từ nước ngoài, đó là nguồn lực rất lớn góp phần cho sự phát triển kinh tế hiện nay.

Mặt khác giá trị chiếm giữ cổ đông nước ngoài trung bình của ngành thực phẩm, đồ uống hiện nay là 9.2% (tỷ lệ này không cao). Do đó các doanh nghiệp thực phẩm đồ uống niêm yết cần hiểu rõ rằng nhà đầu tư trong và ngoài nước thường đòi hỏi các công ty họ đầu tư phải áp dụng những cơ chế quản trị tốt, hoặc họ chỉ bỏ vốn đầu tư vào những công ty đã có những BCTC có độ tin cậy cao. Lợi ích này đã được khẳng định và củng cố bởi các nghiên cứu về nhà đầu tư mà kết quả đã chỉ ra rằng nhà đầu tư thường ưu tiên đầu tư vào những công ty được quản trị tốt hơn hay mức độ tin cậy của thông tin cao. Do đó, việc áp dụng những cơ chế quản trị tốt và tăng cường chất lượng thông tin trong BCTC cũng là một giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư.

5.2.2 Đối với nhân tố Cổ đông lớn

Theo kết quả nghiên cứu, Cổ đông lớn giúp cho BCTC có độ tin cậy cao hơn. Do đó, các doanh nghiệp niêm yết cần công bố thông tin nhiều hơn về các

cổ đông, tăng cường việc công bố thông tin của doanh nghiệp nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Việc công bố thông tin là cơ chế để giảm thiểu sự bất cân xứng thông tin giữa bên trong doanh nghiệp và bên ngoài doanh nghiệp, giúp cho nhà đầu tư có cái nhìn cụ thể, chi tiết hơn về tình hình của doanh nghiệp.

Xuất phát từ lý do những thông tin về cổ đông không phải là những thông tin bắt buộc doanh nghiệp phải công bố. Các thông tin mang tính tự nguyện ít được doanh nghiệp tự giác công bố. Nhiều công ty CBTT chủ yếu nhằm mục đích đối phó (trích kết quả nghiên cứu của IFC, 2012), không xem đó là trách nhiệm và là cách để lấy lòng tin của nhà đầu tư. Dẫn đến nhà đầu tư chưa có được những thông tin rõ ràng để làm một căn cứ ra quyết định.

Các doanh nghiệp cần chủ động cung cấp thông tin về các cổ đông lớn nhằm cung cấp thông tin cho những nhà đầu tư muốn tìm hiểu về mức độ tập trung quyền sở hữu của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với nhà đầu tư cá nhân, thông tin này giúp họ xem xét các đối tượng góp vốn vào công ty là những ai, mức độ tin cậy như thế nào, từ đó làm căn cứ ra quyết định đầu tư.

5.2.3 Đối với nhân tố Quy mô công ty

Quy mô doanh nghiệp càng lớn độ tin cậy càng cao, do những công ty có quy mô lớn thì mức độ công bố thông tin càng nhiều. Nguyên nhân chủ yếu làm cho BCTC giảm bớt sự trung thực là do ý muốn chủ quan của doanh nghiệp, cố tình gian lận để trình bày BCTC theo mục đích riêng. Để nâng cao độ tin cậy BCTC, thì ý thức của doanh nghiệp đóng vai trò then chốt, khi BCTC của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững, an toàn tài chính, bảo toàn vốn thì chất lượng BCTC mới đảm bảo độ tin cậy.

Các công ty lớn thường có tổ chức, hệ thống kế toán được đầu tư cả về số lượng và chất lượng, bộ máy kế toán đủ mạnh về chuyên môn, nắm chắc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tài chính sẽ góp phẩn tích cực trong việc lập và trình bày BCTC. Mục đích của BCTC là phục vụ nhu cầu của người đọc thông tin BCTC và nhu cầu quản lý chứ không phải phục vụ mục đích cá nhân doanh

nghiệp. Vậy nên, chỉ khi ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp được nâng cao thì BCTC mới đảm bảo độ tin cậy.

Theo tác giả, các công ty cần phải tăng cường đầu tư nguồn nhân lực để đảm bảo chất lượng và độ tin cậy của BCTC.

5.2.4 Đối với nhân tố Cơ hội tăng trưởng

Từ kết quả phân tích trên cho thấy các công ty có cơ hội tăng trưởng cao thi độ tin cậy BCTC càng cao và tỷ số tài chính này là một trong số chỉ tiêu tài chính để các chủ nợ cũng như ngân hàng đánh giá khả năng tài chính để quyết định có nên cho nợ hay cho vay hay không, nếu tỷ số này càng cao thì đây là một tín hiệu tốt để làm căn cứ ra quyết định.

5.2.5 Đối với nhân tố Chính sách cổ tức

Tỷ lệ lợi nhuận trả cổ tức càng cao lợi nhuận giữ lại càng thấp, do đó công ty sẽ không thể mở rộng quy mô để phát triển bền vững. Do đó doanh nghiệp cần cân nhắc tới cơ hội đầu tư trong dài hạn khi quyết định tỷ lệ trả cổ tức sẽ giúp công ty có được sự chủ động về tài chính và giảm các chi phí do việc phải huy động nguồn vốn bên ngoài. Một công ty đang có tốc độ tăng trưởng cao với nhiều dự án hấp dẫn nên trả mức cổ tức thấp hơn một công ty không có nhiều cơ hội đầu tư. Tuy nhiên cắt giảm cổ tức thường gây tác động tiêu cực lên giá cổ phiếu, các doanh nghiệp niêm yết cần phải đưa ra một mức cổ tức mà họ có thể duy trì trong tương lai.

Khả năng huy động vốn trên thị trường càng thấp thì càng khiến công ty muốn giữ lại thu nhập để tái đầu tư thay vì trả cổ tức cho cổ đông, do đó chính sách cổ tức cũng là một thông tin đáng tin cậy để nhà đầu tư căn cứ ra quyết định.

5.2.6 Một số kiến nghị khác

Tình hình thực tết hiện nay cũng như ở các nghiên cứu trước cho thấy các nhà đầu tư cũng quan tâm rất nhiều vào dịch vụ kiểm toán mà doanh nghiệp đang sử dụng, do đó một doanh nghiệp kiểm toán uy tín cũng giúp cho BCTC có độ tin cậy cao hơn đối với nhà đầu tư.

Thực tế cho thấy rất nhiều công ty có sự chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán. Tuy nhiên việc giảm doanh thu, giảm lợi nhuận sau kiểm toán đã gây ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đồng vốn của nhà đầu tư. Do đó, tăng cường hơn nữa về chất lượng kiểm toán khi thực hiện kiểm toán BCTC của các công ty khách hàng nhằm đảm bảo quyền lợi của người sở hữu DN, đồng thời, nâng cao thương hiệu cho chính các công ty kiểm toán.

Các công ty ngành thực phẩm cũng cần tăng cường hơn nữa về đầu tư chất lượng sản phẩm, tạo uy tín đối với người tiêu dung từ đó tạo điều kiện thúc đẩy cầu thị trường góp phần tích cực trong hiệu quả kinh doanh và lượng cầu thị trường tăng cũng là tín hiệu tốt để thu hút đầu tư. Cần tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập từ bên trong. Hoạt động kiểm soát sẽ làm tăng độ tin cậy của các BCTC.

Theo lý thuyết đại diện, các công ty có mượn nợ nhiều đã ý thức đến việc công bố thông tin để làm các chủ nợ yên tâm trong việc cho họ vay tiền, đồng thời đánh giá tốt họ để họ có thể thỏa thuận được mức chi phí lãi vay thấp hơn bình thường. Điều đó cho thấy, chủ nợ có vai trò khá lớn trong việc khiến doanh nghiệp phải công bố nhiều thông tin hơn góp phần làm chất lượng thông tin của doanh nghiệp niêm yết. Do vậy, đề nghị các chủ nợ cần tăng cường sự giám sát chặt chẽ hơn nữa với các công ty đang vay vốn của mình. Kết quả giám sát chặt chẽ của các chủ nợ, ngân hàng hay tổ chức tín dụng là một giải pháp khá tốt nhằm nâng cao độ tin cậy trong công bố thông tin của các CTNY.

Tuy nhiên, để phần nào hạn chế rủi ro cho những doanh nghiệp không trung thực trong báo cáo, cung cấp báo cáo “không sạch”, trong quá trình thẩm định tín dụng, ngân hàng không nên chỉ xem xét mức lợi nhuận công bố hay dựa quá nhiều vào các thông tin tài chính của doanh nghiệp để ra quyết định, mà nên chú trọng thêm những thông tin khác như tính khả thi của các phương án kinh doanh (vì đây là nguồn trả nợ chính của doanh nghiệp), hay xem xét đến uy tín tín dụng của doanh nghiệp để xem xét khả năng trả nợ cũng như thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Việc ngân hàng không quá dựa vào báo cáo tài chính để ra quyết định một mặt làm giảm rủi ro cho ngân hàng, mặt khác còn góp phần làm

giảm động cơ “điều chỉnh” tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, qua đó, thông tin trên báo cáo tài chính được trình bày một cách trung thực hơn. Ngoài ra, cần chú trọng tham khảo thêm nhiều nguồn thông tin khác ngoài báo cáo tài chính trong quá trình thẩm định tín dụng.

Đối với các nhà đầu tư và các đối tượng khác sử dụng thông tin trên BCTC: Kết quả của nghiên cứu này cũng khá hữu ích cho nhà đầu tư và các đối tượng khác sử dụng thông tin trên BCTC của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam đặc biệt các công ty ngành thực phẩm đồ uống, cụ thể, theo kết quả của nghiên cứu cho thấy các công ty có vốn đầu tư nước ngoài càng cao thì độ tin cậy BCTC càng thấp (trái với giải thuyết đưa ra và một số nghiên cứu trước đây), do đó các nhà đầu tư không chỉ dựa vào một nhân tố mà cần đánh giá nhiều nhân tố có thể tác động đến độ tin cậy của thông tin mà doanh nghệp đã công bố để có quyết định đầu tư hiệu quả.

5.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Nghiên cứu chỉ thực hiện trên HNX và HOSE. Kết quả nghiên cứu có thể vững chắc hơn, bao quát hơn nếu như bổ sung thêm các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán UPCOM.

Giá trị R2 điều chỉnh 42.88% chứng tỏ các nhân tố đưa vào phân tích chỉ

mới giải thích được 42.88% tác động đến độ tin cậy BCTC. Do đó cần bổ sung thêm các nhân tố mới vào mô hình nghiên cứu nhằm đánh giá độ tin cậy BCTC.

Đối với nghiên cứu độ tin cậy BCTC của các doanh nghiệp ngành thực phẩm và đồ uống niêm yết trên sàn chứng khoán, đề tài nghiên cứu không phân ra theo quy mô doanh nghiệp. Như vậy, phần kiến nghị chỉ mang tính chung cho toàn bộ doanh nghiệp không nêu rõ được chính sách cụ thể cho quy mô cho từng doanh nghiệp cụ thể.

Từ những hạn chế của đề tài nghiên cứu thì những nghiên cứu tiếp theo nên tìm nguồn số liệu chi tiết của các doanh nghiệp để phân tích độ tin cậy của BCTC phân theo quy mô doanh nghiệp từ đó đưa ra giải pháp, chính sách rõ ràng, cụ thể hơn nhằm thúc đẩy nâng cao chất lượng cũng nhứu độ tin cậy của BCTC cho các doanh nghiệp ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Danh mục tài liệu tiếng Việt

Bộ Tài chính, 2002, Chuẩn mực kế toán số 21: Trình bày báo cáo tài chính và chuẩn mực kiểm toán số 500: Bằng chứng kiểm toán (Ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính).

Cao Nguyễn Lệ Thư, 2014. Đánh giá các nhân tố bên trong doanh nghiệp tác động đến chất lượng TTKT trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết ở sở giao giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh.

Đỗ Hoàng Anh Thư (2018) Các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính: thực nghiệm tại các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Anh Hiền và Phạm Thanh Trung, 2015. Kiểm định và nhận diện mô hình nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Tạp chí phát triển KH & CN, Số Q3 – 2015.

Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương, 2014. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết. Tạp chí Phát triển Kinh tế 287, 09/2014.

Nguyễn Xuân Hưng và Phạm Quốc Thuần, 2016. Tác động của các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp đến tính thích đáng của chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính. Tạp chí phát triển kinh tế, tháng 2/2016.

Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Phi Long, Phạm Xuân Kiên, Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới độ tin cậy của báo cáo tài chính doanh nghiệp FDI Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 254 (II), tháng 8 năm 2018, tr. 83-92 Phan Thị Hằng Nga và Phan Thị Trà Mỹ (2017). Các yếu tố ảnh hưởng

đến công bố thông tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp trên báo cáo tài chính. Tạp chí phát triển kinh tế, 7/2017.

Phạm Thanh Trung (2016) “Đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến chất lượng thông tin trình bày trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở TP Hồ Chí Minh.

Trương Thị Kim Thủy 2016. Ảnh hưởng của quản trị công ty đến chất lượng TTKT trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán TP Hồ Chí Minh.

Đặng Thị Kiều Hoa (2016), Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng chứng thực nghiệm tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Huỳnh Thị Minh Phương (2017) Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các doanh nghiệp niêm yết nhóm ngành Bất động sản giai đoạn 2011- 2015.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/03/2023