Thuế Đối Với Thu Nhập Là Lãi Tiền Cho Vay


trường hợp người nhận không phải đối tượng thực hưởng thì có thể bị đánh thuế theo quy định khác của Hiệp định hoặc không được áp dụng Hiệp định.


Như vậy, thu nhập từ tiền lãi cổ phần của một công ty là đối tượng cư trú của một nước trả cho một đối tượng cư trú của nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở cả hai nước, nước có nguồn thu nhập và nước mà người nhận là đối tượng cư trú.


Nước có nguồn thu nhập (nước mà công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú) có quyền đánh thuế nhưng trong trường hợp người nhận khoản thu nhập này là đối tượng cư trú của nước ký kết kia thì việc đánh thuế bị hạn chế theo mức tối đa như đã nêu ở Khoản 2 Điều 10 của Hiệp định. Nước ký kết kia có quyền đánh thuế nhưng có nghĩa vụ áp dụng biện pháp tránh đánh thuế hai lần đối với số thuế mà đối tượng cư trú của nước mình đã nộp tại nước có nguồn thu nhập.


Theo pháp luật Việt Nam, tiền lãi cổ phần là khoản tiền được trích từ thu nhập sau thuế (số tiền còn lại sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần trả cho các thành viên góp vốn, cổ đông, khoản tiền được trích từ thu nhập sau thuế của doanh nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài trả cho bên nước ngoài, thu nhập từ các hoạt động đầu tư (gián tiếp) ở nước ngoài (không kể lãi từ tiền cho vay) của các đối tượng cư trú Việt Nam, và thu nhập được chia từ hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam được nước ký kết xử lý thuế như lãi cổ phần.


Việt Nam có quyền đánh thuế đối với tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam theo một thuế suất giới hạn tuỳ theo từng Hiệp định

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.


(thường không quá 15%) với điều kiện đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng.

Các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và nước ngoài - 9


Việt Nam có quyền đánh thuế đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần của một công ty là đối tượng cư trú của nước ký kết trả cho đối tượng cư trú nước mình theo pháp luật Việt Nam, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần trong phạm vi số thuế đối tượng cư trú của mình đã nộp ở nước ký kết.


Các quy định về thuế đối với tiền lãi cổ phần chỉ áp dụng đối với các đối tượng thực hưởng lợi ích của cổ phần - nghĩa là các cổ đông, thành viên góp vốn. Do đó, sẽ không áp dụng đối với: i) Đối tượng nhận khoản thanh toán tiền lãi cổ phần nhưng không phải là cổ đông; ii) Tiền lãi cổ phần do công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú đặt tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam;

iii) Tiền lãi cổ phần do công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú của một công ty khác của Việt Nam đặt tại nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.


Hiện nay, quy định về đánh thuế thu nhập từ tiền lãi cổ phần đối đối tượng cư trú của nước ngoài nhận được từ đối tượng cư trú của Việt Nam chỉ có giá trị nghiên cứu do theo Thông tư số 26/2004/TT-BTC ngày 31/3/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp tái đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam không đánh thuế đối với loại thu nhập này từ 1/1/2004 (xem 1.5).


2.2.5. Thuế đối với thu nhập là lãi tiền cho vay


Thuế đối với thu nhập là lãi từ tiền cho vay thường được quy định tại Điều 11 của Hiệp định như sau: "1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại nước kia.


2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi cũng có thể bị đánh thuế ở nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của nước đó, nhưng nếu người nhận là người thực hưởng các khoản tiền lãi này thì mức thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.


Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước ký kết sẽ xây dựng phương pháp áp dụng giới hạn này bằng thỏa thuận chung.


3. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 2, lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một nước ký kết và trả cho Chính phủ nước ký kết kia hoặc một cơ quan hợp pháp của nước kia hoặc Ngân hàng quốc gia của nước kia sẽ được miễn thuế ở nước thứ nhất.


4. Thuật ngữ "lãi từ tiền cho vay" dùng ở Ðiều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hay không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có ủy quyền được hưởng lợi tức của ngươì đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó. Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo nội dung của Ðiều này.


5. Những quy định tại khoản 1,2 và 3 không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú tại một nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại nước ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại nước kia hoặc thực hiện tại nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó. Trong trường hợp này, các quy định tại Ðiều 7 hoặc Ðiều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.


6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại một nước ký kết khi đối tượng trả chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương, hoặc đối tượng cư trú của nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.


7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Ðiều này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của từng nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này." (Điều 11 Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy sỹ ký năm 1996).


Theo Hiệp định thì thì lãi tiền cho vay phát sinh ở một nước ký kết trả cho đối tượng cư trú của nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở cả hai nước, nước có thu nhập phát sinh (nước mà đối tượng cư trú là người đi vay và trả lãi) và nước có đối tượng cư trú là người cho vay và thu lãi.


Nước có thu nhập phát sinh là nước mà người chịu và trả lãi là đối tượng cư trú của nước mình. Có một ngoại lệ là trường hợp cơ sở thường trú của một doanh nghiệp trả lãi thì nước nơi đặt cơ sở thường trú đó được coi là nước phát sinh thu nhập mà không phải là nước nơi doanh nghiệp là đối tượng cư trú.


Trường hợp người nhận tiền lãi không phải đối tượng thực hưởng sẽ không được áp dụng Điều này hoặc áp dụng Hiệp định. Trường hợp tiền lãi phát sinh liên quan đến cơ sở thường trú hoặc dịch vụ cá nhân thì sẽ áp dụng Điều 7 của Hiệp định (thu nhập từ hoạt động kinh doanh) hoặc Điều 14 của Hiệp định (thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân).


Thu nhập từ lãi tiền cho vay là lợi ích bên cho vay được hưởng theo hợp đồng. Trường hợp số thu nhập nhận được vượt quá số tiền lãi phải trả theo thỏa thuận sẽ bị suy đoán là không phát sinh trên quan hệ vay nợ và không được áp dụng Hiệp định.


Các khoản lãi phải trả phát sinh từ vay nợ giữa hai Chính phủ được miễn thuế.


Nước có thu nhập phát sinh được quyền đánh thuế giới hạn với thuế suất tối đa là 10%, với điều kiện người nhận tiền lãi chính là người cho vay (đối tượng thực hưởng). Nước có đối tượng cư trú là người nhận thu nhập


cũng có quyền đánh thuế, đồng thời có nghĩa vụ áp dụng biện pháp tránh đánh thuế hai lần khi tính thuế thu nhập của đối tượng nhận lãi.


Theo quy định tại Mục V Phần B Thông tư số 133/2004/TT-BTC, lãi tiền cho vay là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó.


Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam là các khoản lãi từ tiền cho vay do bất cứ một đối tượng cư trú nào của Việt Nam chịu và phải trả, kể cả các khoản lãi được chịu và phải trả bởi Chính phủ Việt Nam và các cơ quan chính quyền địa phương Việt Nam hoặc các cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định của một đối tượng cư trú nước ngoài có tại Việt Nam.


Các quy định về thuế đối với thu nhập là lãi từ tiền cho vay theo Hiệp định chỉ áp dụng đối với các đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay đó - nghĩa là người cho vay. Do đó, sẽ không áp dụng đối với: i) Đối tượng nhận khoản thanh toán lãi từ tiền cho vay nhưng không phải là người cho vay; ii) Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú đặt tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam; iii) Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú của một công ty khác của Việt Nam đặt tại nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.


Việt Nam có quyền thu thuế đối với lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt


Nam theo một thuế suất giới hạn (thường không quá 10%) tuỳ theo từng Hiệp định, với điều kiện đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng. Việt Nam có quyền đánh thuế thu nhập đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được lãi từ tiền cho vay phát sinh tại nước ký kết Hiệp định với Việt Nam theo nội luật nước mình, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần đối với khoản thu nhập này.


2.2.6. Thuế đối với thu nhập từ tiền bản quyền


Thuế đối với thu nhập từ tiền bản quyền thường được quy định tại Điều 12 của Hiệp định như sau: 1. Tiền bản quyền phát sinh tại một nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở tại nước kia.


2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của nước này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của nước ký kết kia, thì mức thuế được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.


Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước ký kết sẽ xây dựng phương thức áp dụng giới hạn này bằng thỏa thuận chung.


3. Thuật ngữ "tiền bản quyền" được sử dụng trong Ðiều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc các loại phim hay các loại băng dùng trong phát thanh và truyền hình, bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả cho việc sử dụng, hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hay trả cho


thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương nghiệp hoặc khoa học.


4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại nước kia hoặc tiến hành tại nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với cở sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp này, các quy định của Ðiều 7 hoặc Ðiều 14, tùy theo từng trường hợp, sẽ được áp dụng.


5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của nước đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư trú của một nước ký kết, có ở một nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở nước nơi có cơ sở thường trú hay cơ sở đó đóng.


6. Trong trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng khác khoản tiền bản quyền, liên quan đến việc sử dụng quyền hay thông tin có số tiền bản quyền được trả, đối với việc sử dụng, quyền hoặc thông tin, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Ðiều

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 21/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí