MỞ ĐẦU
***
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, sau hơn hai mươi hai năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, nhất là trong khoảng hơn mười năm trở lại đây với mức tăng trưởng bình quân 7%, năm năm gần đây bình quân 7,5%, riêng năm 2007 là 8,5% (nguồn: gso.gov.vn), xu thế phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ đã làm sức bật cho thị trường tài chính phát triển một cách nhanh chóng, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng trong toàn nền kinh tế.
Yêu cầu về vốn thúc đẩy thị trường vốn không ngừng phát triển, từ đó dẫn đến sự ra đời của TTCK là một tất yếu khách quan, khi mà các tổ chức tài chính trung gian đã có trước đây, không thể đảm nhận tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thi trường chứng khoán là một thị trường cao cấp, hoạt động của thị trường có những yêu cầu rất khác biệt so với các thị trường truyền thống như thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường lao động …, hàng hoá lưu thông, mua, bán trên thị trường là chứng khoán, đây là các công cụ chu chuyển vốn của nền kinh tế, những hoạt động kinh doanh trên TTCK dựa vào thông tin là chính, lấy niềm tin làm cơ sở cho
sự tồn tại và phát triển của thị trường.
Trong các loại thông tin được cung cấp trên thị trường thì TTKT được cung cấp đưới dạng các báo cáo tài chính quý, năm là những thông tin có vai trò quan trọng đặc biệt, nó có ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cung – cầu chứng khoán, là động lực cho quyết định mua vào, bán ra của nhà đầu tư trên thị trường sau khi phân tích các BCTC được công bố. Mặt khác đứng trên phương diện vĩ mô nền kinh tế, những TTKT của các DNNY cũng phần nào nói lên tình hình chung của toàn nền kinh tế, tình hình sức khoẻ tài chính quốc gia.
Có thể bạn quan tâm!
- Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam - 2
- Các Nguyên Tắc Hoạt Động Trên Thị Trường Chứng Khoán
- Thông Tin Kế Toán Công Bố Trên Ttck Ở Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới.
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Chính vì những lý do trên, yêu cầu đầu tiên của thị trường là phải xây dựng được một hệ thống đánh giá chất lượng TTKT, một mạng lưới CBTT hiện đại và rộng khắp, nhằm ngoài việc thông tin công bố có chất lượng cao, nó còn phải được truyền đi nhanh chóng, kịp thời, cũng như phải làm sao cho các chủ thể hoạt động kinh doanh trên thị trường có quyền bình đẳng trong tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên kể từ khi TTCK Việt Nam được thành lập cho đến nay, hiện tượng bất cân xứng trong tiếp nhận thông tin thường xuyên xảy ra, thực trạng thông tin là báo cáo tài chính thường niên cung cấp trên thị trường còn nhiều bất cập, cần phải được bổ khuyết cho phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn nền kinh tế. Vì vậy, chúng tôi với việc nghiên cứu những mô hình công bố thông tin trên thị trường chứng khoán một số nước trên thế giới, kết hợp với điều tra, khảo sát, thống kê, phân tích thực trạng công bố thông tin kế toán trên TTCK Việt Nam, thông qua đề tài:
“Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam”. Với mong muốn đưa ra một số nhận xét đánh giá, đồng thời kiến nghị những giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán, nhằm mục đích xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, tăng cường tính minh bạch, trung thực, kịp thời, cũng như từng bước nâng cao chất lượng thông tin được công bố trên thị trường,
xây dựng TTCK phát triển hiệu quả, công bằng, ổn định và bền vững.
Mục tiêu tổng quát
TTCK có thể phát triển ổn định và bền vững được hay không phần lớn tùy thuộc vào môi trường kinh doanh, chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường, thông tin được cung cấp trên thị trường là yếu tố góp phần tăng thêm chất lượng, củng cố niềm tin của các chủ thể kinh doanh. Về phía Nhà nước nhằm thực hiện điều này, đã ban hành Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành vào
đầu năm 2007. Đối với TTCK Việt Nam, đây là lần đầu tiên có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Để có thể phần nào đó nhận định đúng thị trường, chúng tôi đã chọn ra ba năm 2006 – 2007 – 2008 để nghiên cứu, đánh giá, vì các lý do sau:
- Năm 2006 là năm có mức tăng đột biến về số lượng cũng như giá trị cổ phiều các công ty đăng ký và niêm yết nhiều nhất trên TTCK kể từ ngày mới thành lập cho đến nay (SGDCK Tp HCM: năm 2005: 35 công ty; năm 2006: 106 công ty).
- Năm 2007 là năm lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán, Chính phủ và Bộ Tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Năm 2008 là năm thứ hai các báo cáo tài chính, nhất là báo cáo tài chính năm được thực hiện và công bố trong điều kiện có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh trên TTCK.
- Một lý do quan trọng nữa là cũng trong những năm này, hiện tượng đầu tư tràn lan vào thị trường chứng khoán. Từ nửa cuối năm 2006 đến đầu năm 2007, có khoảng 10 tỷ Đô la Mỹ và 300 ngàn tỷ đồng của nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức cá nhân trong nước bơm vào TTCK và thị trường bất động sản1, ngay lập tức đã tạo ra giai đoạn thị trường bong bóng ( đầu năm 2006 VNIndex trong khoảng trên 300 điểm, đã tăng mạnh vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007, đạt đỉnh vào ngày 12/3/2007: 1.170 điểm, và trở lại trong khoảng trên 300 điểm vào cuối năm 2008) , đây cũng là nguyên nhân gây nên tình hình lạm phát cao khiến Chính phủ
phải sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ.
- Mặt khác trong giai đoạn này cũng tồn tại nhiều bất cập trong điều hành vĩ mô TTCK, cùng với hiện tượng khai thác quá mức thị trường đã gây nên hậu quả không tốt, ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày, phân tích kỹ trong các phần sau.
Đây là những năm tập trung khá nhiều sự kiện và dữ liệu mang nhiều ý
nghĩa đối với TTCK còn non trẻ của Việt Nam, qua đây chúng tôi muốn chia sẻ
quan điểm về việc xây dựng hệ thống công bố thông tin kế toán trên TTCK trên các mặt như: hình thức, nội dung, phương tiện …, nhằm mục đích sao cho báo cáo tài chính cung cấp trên thị trường ngày càng trung thực, minh bạch và hợp lý hơn, góp phần tăng tăng cường chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường, tạo lập niềm tin của nhà đầu tư vào TTCK Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
Thông qua nghiên cứu tổng quan về thông tin kế toán trên TTCK, xác định vai trò, bản chất của thông tin kế toán trên thị trường, mức độ quan trọng cũng như yêu cầu lâu dài, cần thiết phải củng cố hệ thống thông tin công bố trên thị trường, đồng thời có so sánh, đối chiếu với các TTCK trên thề giới để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm xây dựng TTCK Việt Nam, vừa phù hợp với thực trạng nền kinh tế, vừa từng bước đến gần với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Bước tiếp theo là thông qua khảo sát và nghiên cứu ngay trên TTCK Việt Nam vào những năm nhạy cảm, từ đó đưa ra các đánh giá về thực trạng CBTT của các DNNY trên thị trường, nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhằm từng bước có biện pháp khắc phục và hoàn thiện.
Sau cùng, căn cứ vào những đánh giá nói trên, luận văn cũng đưa ra những định hướng cho quy trình công bố thông tin trên thị trường, xác định giải pháp, những ý kiến kiến nghị đối với các chủ thể hoạt động trên thị trường với mục đích sao cho thông tin kế toán công bố trên thị trường ngày càng trung thực, hợp lý, chính xác, kip thời và minh bạch.
Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, khả năng nghiên cứu và các lý do bất khả kháng khác, trong luận văn chỉ đề cập đến báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên TTCK, và cũng chỉ dùng tư liệu là báo cáo tài chính thường niên của các doanh nghiệp niêm yết trên SGDCK TpHCM (HOSE) trong ba năm : 2006 – 2007 –
2008, kết hợp với phần khảo sát, thống kê thực tế, để phân tích, đánh giá đưa ra định hướng và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện việc CBTT trên TTCK mà thôi.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như chọn mẫu nghiên cứu, điều tra, khảo sát, thống kê mô tả, phân tích và các dữ liệu quá khứ đã tập hợp được thông qua các biểu đồ, hình ảnh, các chỉ số phân tích …, kết hợp so sánh, đối chiếu với hệ thống luật pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến các lĩnh vực mà đề tài nghiên cứu, từ đó đánh giá tình hình thực tế, đưa ra một số giải pháp kiến nghị đối với các chủ thể có liên quan trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc khoa học và đảm bảo tính khách quan trong các giải pháp trình bày.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, và phụ lục, đề tài được chia làm ba phần chính
Chương 1
Tổng quan về kế toán và công bố thông tin trên Thị trường Chứng khoán
Kết luận chương 1
Chương 2
Thực trạng công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam.
Kết luận chương 2
Chương 3
Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin của công ty niêm yết trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam.
Kết luận chương 3
Kết luận chung
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
KẾ TOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1.1. Bản chất và vai trò của thông tin kế toán.
1.1.1 Bản chất của kế toán.
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn, sự phát triển xã hội của các cộng đồng cư dân gắn liền với sự phát triển kinh tế. Nhiều di chỉ khảo cổ đã chỉ ra rằng nền văn minh mà xã hội loài người hiện nay có được, phần lớn là nhờ vào những kiến thức, tư liệu lịch sử để lại là các tài liệu được ghi chép dưới dạng văn tự cổ xưa, trong đó các nhà khảo cổ đã tìm thấy những tài liệu có liên quan đến kinh tế, cổ vật đã được tìm thấy đầu tiên là các bản khắc axít bằng đất nung cách đây hơn 3.300 năm trước công nguyên, hồ sơ ghi chép bằng chữ tượng hình các khoản thuế của người Ai Cập cổ đại 2.
Công việc ghi chép lại các sự kiện có liên quan đến các hoạt động kinh tế trong xã hội luôn là những vấn đề thực tiễn được con người quan tâm hàng đầu, trong suốt con đường hoạt động cho mục đích tồn tại và phát triển của cộng đồng người, trước khi nó chính thức trở thành một môn khoa học với một hệ thống các lý thuyết, giải thích dựa trên những cơ sở khoa học có sự hỗ trợ của các môn học khác như toán học, triết học, logic học…, và có tên gọi là hạch toán kế toán như bây giờ.
Tuy nhiên, công việc ghi chép cũng có tính chất vận động riêng của nó, ở giai đoạn đầu việc ghi chép chỉ mang tính chất phản ảnh, sao chép, ghi lại các sự kiện hiện thực trong đời sống kinh tế, chỉ từ khi con người phát minh ra chữ viết và số, cùng với sự ra đời của toán học dựa trên các chữ số và ký hiệu đã đem lại cho công việc ghi chép các sự kiện kinh tế giá trị thực sự của nó, hạch toán kế toán và thông tin kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng và không thể thiếu trong quá trình hoạt động kinh tế của con người nhất là vào giai đoạn hiện nay.
Với mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao trong các hoạt động kinh tế, thông tin kế toán phải được cung cấp kịp thời, chính xác, và trên tất cả mọi mặt. Trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày nay, các hoạt động kinh tế rất đa dạng, có nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng dù ở trong lĩnh vực nào đi nữa thì thông tin kế toán luôn mang tính chất quan trọng và không thể thiếu, qua đó cho phép chúng ta hiểu rò về các hoạt động kinh tế mà mình đang thực hiện, cũng như hiệu quả của các công việc này là như thế nào. Hạch toán kế toán chính là công việc ghi chép các diễn biến trong hoạt động kinh tế dựa trên quan sát, đo lường, tính toán và ghi lại những sự việc trên.
Trong các hoạt động kinh tế diễn ra hàng ngày thường mang tính chu kỳ, đầu chu kỳ là quá trình đầu tư bằng nhiều phương tiện khác nhau như vốn bằng tiền, nguyên vật liệu, sức lao động của con người …, cuối chu kỳ là quá trình thu hoạch, tổng kết tính toán hiệu quả hoạt động kinh tế, xem xét để ra quyết định tiếp tục một chu kỳ tái sản xuất mới, đây chính là các đối tượng mà trong quá trình quan sát phải ghi nhận lại, và khi ghi nhận phải tuân thủ nguyên tắc về đo lường, mỗi đối tượng phải được đo lường với đơn vị đo lường phù hợp. Các giai đoạn trên phải được ghi chép vào sổ sách theo quy định, đồng thời dùng các phép tính, để tính toán, quy đổi, tổng hợp các số liệu này đưa vào các biểu mẫu nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng có liên quan.
Công tác hạch toán được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, tùy theo yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực kinh tế nhất định, nhìn chung công tác hạch toán có các dạng sau:
- Hạch toán nghiệp vụ là dạng ghi chép trong từng công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh việc ghi chép chỉ mang tính ghi nhận, tính toán, tổng hợp từng phần không mang tính chất tổng hợp do đó các chỉ tiêu sử dụng ít, thông tin đơn giản, chủ yếu dùng để làm số liệu tổng hợp mà thôi.
- Hạch toán thống kê là dạng hạch toán cung cấp những thông tin tổng hợp có sử dụng nhiều đơn vị đo lường, nhiều chỉ tiêu tổng hợp cũng như nhiều phương pháp, kỹ thuật tính toán phức tạp, số liệu đi kèm với thời gian, khu vực nhất định, vì thế thông qua số liệu thống kê người ta có thể rút ra các quy luật vận động, xu thế phát triển của sự vật hiện tượng.
- Hạch toán kế toán là việc phản ảnh một cách thường xuyên, tổng hợp, liên tục và có hệ thống các sự kiện kinh tế phát sinh trong một đơn vị kinh tế cần xem xét, theo dòi. Việc phản ảnh các sự kiện kinh tế này thông qua các thước đo là tiền, hiên vật và thời gian lao động.
“Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động” 3.
Mục đích của kế toán là cung cấp thông tin, thông tin được cung cấp cho nhiều đối tượng khác nhau, và với các yêu cầu khác nhau, vì thế kế toán được chia thành hai phân hệ: kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Kế toán tài chính cung cấp những thông tin tổng hợp tình hình dịch chuyển các nguồn lực tài chính trong, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động khác trong doanh nghiệp…, nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng bên trong và bên ngoài, chủ yếu là các đối tượng ngoài doanh nghiệp. Thông tin của kế toán tài chính là những thông tin quá khứ (đã xảy ra rồi), được ghi chép lại vì vậy đòi hỏi phải chính xác, độ tin cậy cao, mặt khác việc quan trọng nhất của báo cáo tài chính là nó mang tính quyết định cuối cùng.
“Kế toán tài chính là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của đơn vị kế toán” 4 .
Kế toán quản trị cũng cung cấp những thông tin kế toán có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như chi phí, thu nhập, của từng bộ phận, sản phẩm cụ thể