Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam - 2


cũng như của từng khâu, từng loại sản phẩm, các thông tin này nhằm mục đích

phục vụ nhu cầu quản trị ở các cấp độ khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.

Đặc điểm của kế toán quản trị là những thông tin nó cung cấp mang tính định hướng tương lai (sự kiện sắp xảy ra), nhờ vào thông tin của kế toán quản trị, các nhà quản lý thực hiện chức năng quản trị của mình như: hoạch định, kiểm soát và ra quyết định, vì vậy hình thức công bố thông tin rất đa dạng và tùy theo thông tin cung cấp mà sử dụng các thước đo khác nhau cho phù hợp.

“Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”5.

Kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối liên quan mật thiết với nhau, trong quá trình cung cấp thông tin hai loại kế toán này tạo thành sự liên kết nhất quán, phản ảnh liên tục những sự kiện đã, đang và sẽ xảy ra trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

1.1.2 Vai trò của thông tin kế toán.

Giai đoạn hiện nay, TTKT ngày càng trở nên quan trọng, khi mà toàn cầu hoá kinh tế phát huy tác dụng của nó, từ những thay đổi mô hình kinh tế thị trường theo hướng mở, thay đổi mô hình doanh nghiệp, thay đổi trong những mối quan hệ của các công ty mẹ, con, công ty xuyên quốc gia …, sự quan tâm của chính quyền về hoạt động kinh tế trong và ngoài nước cho mục đích điều hành, yêu cầu có được thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN của các nhà đầu tư, nhà tài trợ, Hội đồng quản trị, cổ đông góp vốn …, thông tin tài chính của doanh nghiệp phải được cung cấp đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời, chính xác và trung thực.

Những vấn đề thông tin kế toán cung cấp trước hết giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp nắm được toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh, quá trình chuyển dịch nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, các đối tượng ở bên ngoài doanh nghiệp cũng từ những thông tin được cung cấp này ra những quyết định liên quan đến thị


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

trường hàng hoá, thị trường tài chính – tiền tệ, quyết định điều tiết, hoạch định

chính sách vĩ mô của các cơ quan quản lý.

Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam - 2

Mặt khác thông tin kế toán đó là các báo cáo tài chính thường kỳ, còn phản ảnh thực trạng tài chính của doanh nghiệp, từ các báo cáo này nhà quản lý có thể đánh giá một cách đúng đắn và toàn diện hoạt động kinh doanh mà mình đang quản lý, hiệu quả thực tế trong công tác điều hành, khả năng hoàn thành các mục tiêu đã đề ra và quan trọng hơn cả là từ các thông tin này giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn.

1.2 Vấn đề công bố thông tin kế toán trên TTCK.

Các nước có TTCK trên thế giới, nhìn chung đều yêu cầu các công ty niêm yết trên thị trường phải công bố TTKT theo quy định của các tổ chức quản lý, điều hành thị trường. Công bố BCTC thường kỳ trên thị trường chứng khoán là cung cấp thông tin tài chính của các doanh nghiệp niêm yết về: tình hình tài sản, nguồn vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, mức cổ tức được chia …, sở dĩ vấn đề công bố TTKT được đặt ra vì các lý do sau:

- Nhằm mục đích công khai, minh bạch hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp niêm yết, phục vụ yêu cầu của tất cả cổ đông trong công ty, cũng như các chủ thể khác có nhu cầu.

- Thị trường chứng khoán là nơi tập trung phần lớn nguồn vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, hàng hoá của thị trường này chủ yếu là cổ phiếu của các công ty niêm yết, chất lượng của hàng hoá chính là hiệu quả kinh tế hiện tại, giá trị ước tính trong tương lai của doanh nghiệp, và chỉ BCTC mới có thể cung cấp cho nhà đầu tư tình hình tài chính theo yêu cầu, và cơ sở dữ liệu này được dùng để nhà đầu tư phân tích tài chính doanh nghiệp, đồng thời ra quyết định đầu tư.

- Trên TTCK công việc kinh doanh chủ yếu dựa vào các thông tin được cung

cấp trên thị trường, vì thế yêu cầu của thị trường là thông tin phải được cung cấp


nhanh chóng, kịp thời, chính xác và nhất là phải đến được với tất cả các đối tượng

tham gia thị trường là như nhau.

- Thông tin trên thị trường là một trong những yếu tố để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư, như thế nó chính là một trong những yếu tố tạo ra cung, cầu hàng hoá trên thị trường, đây cũng là yếu tố cơ bản để thị trường tồn tại, hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững.

- Mặt khác các công ty niêm yết trên TTCK hầu hết là những công ty hàng đầu trong các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế, chất lượng công ty tốt hơn về nhiều mặt so với các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết, chính vì vậy, các cơ quan quản lý, điều hành vĩ mô, các tổ chức thống kê …, có thể thông qua các số liệu này để đánh giá tình hình kinh tế chung trong toàn quốc.

Như vậy vấn đề CBTT trên TTCK mang tính chất quan trọng sống còn của thị trường, thông tin được công bố một cách chính xác, minh bạch, kip thời tạo ra niềm tin, sự an tâm cho các nhà đầu tư, tạo ra động lực kích thích cung, cầu hàng hoá trên thị trường. Trong các loại thông tin được công bố trên thị trường, thông tin kế toán có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của thị trường.

1.2.1 TTCK và cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán.

1.2.1.1 Thị trường chứng khoán (Securities Market)

Thị trường tài chính (Financial Market) bao gồm thị trường vốn (Capital Market) và thị trường tiền tệ (Currency Market), TTCK là bộ phận chính của thị trường vốn. Thị trường tài chính được hình thành, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, nó được sinh ra để giải quyết các mâu thuẫn cơ bản giữa khả năng và nhu cẩu cung ứng vốn phục vụ những hoạt động kinh tế của thị trường.

Trong quá trình phát triển của nền KTTT, nhu cầu về vốn cung ứng cho nền

kinh tế ngày càng cao, tốc độ giao dịch trong sản xuất, thương mại ngày càng phát


triển, vòng quay vốn trong lưu thông hàng hoá tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, song song với tình hình phát triển tài chính – tiền tệ, các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng nhanh chóng phát triển, từ đó nảy sinh các quan hệ mua, bán các loại công cụ tài chính này, đặc biệt là các loại chứng khoán được luật pháp cho phép lưu thông, mua bán trên thị trường. Chính sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã hình thành nên thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán các chứng khoán (bao gồm cả hai loại ngắn và dài hạn), với mục đích giải quyết các nhu cầu về vốn đầu tư.

Mặt khác sự thay đổi về mô hình hoạt động của doanh nghiệp, dưới hình thức vốn tự có của công ty được chia thành nhiều cổ phần có mệnh giá bằng nhau và được gọi là công ty cổ phần, quan trọng hơn cả là việc luật pháp cho phép mua bán các loại cổ phần trong công ty cổ phần, đi đôi với việc phát hành cổ phiếu huy động vốn trong công chúng để phục vụ cho mục đích tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp.

Sự phát triển lớn mạnh của thị trường tài chính, cùng với yêu cầu thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang tổ chức phát hành mà không thông qua định chế trung gian nào, hay nói khác đi đó là đáp ứng yêu cầu chu chuyển vốn đầu tư có chi phí thấp, yêu cầu này đã hình thành nên một loại thị trường cao cấp đó là TTCK, việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, được diễn ra tập trung tại TTCK, trên hệ thống giao dịch điện tử của Sở giao dịch chứng khoán và các hệ thống giao dịch không tập trung khác có liên thông với nhau, nhằm mục đích kết nối giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu tư, mục đích đáp ứng nhu cầu mua, bán chứng khoán của các đối tượng nói trên.

Thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn đầu tư cho nên kinh tế, đây là kênh huy động mà cùng một lúc có thể thoả mãn yêu cầu của nhiều chủ thể tham gia thị trường, cũng như nó có thể đáp ứng tiến độ phát triển theo kịp với xu thế


phát triển chung của nền kinh tế sản xuất hàng hoá mà đỉnh cao là nền kinh tế thị trường.

Thị trường chứng khoán có hai thị trường chính: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

1.2.1.1.1 Thị trường sơ cấp (Primary Market)

Thị trường sơ cấp là nơi phân phối lần đầu các chứng khoán của tổ chức phát hành, việc mua bán được diễn ra theo nhiều hình thức: phát hành không thông qua đấu giá và phát hành thông qua đấu giá, chính trong quá trình đấu giá đã hình thành nhiều loại giá khác nhau của chứng khoán phát hành, nhưng đa phần chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp bán theo mệnh giá. Phát hành được chia ra làm hai loại: Phát hành ra công chúng lần đầu (Inititial Public Offering - IPO) và phát hành tăng vốn điều lệ.

Các cơ quan quản lý, điều hành TTCK các nước thường có quy định cụ thể đối

với các tổ chức phát hành chứng khoán ra thị trường, gồm:

- Tổ chức phát hành phải đáp ứng quy mô về vốn điều lệ tối thiểu, cơ cấu cổ đông ngoài công ty, tổng giá trị và số lượng cổ phiếu phát hành và số lượng nhà đầu tư tham gia mua.

- Có báo cáo tài chính theo đúng quy định về phát hành chứng khoán.

- Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải có lãi, không thấp hơn

mức quy định và trong một số năm nhất định.

- Mục đích của đợt phát hành, kế hoạch sử dụng vốn.

- Thông tin về các nhà quản lý cấp cao của doanh nghiệp.

- Tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông lớn (theo quy định riêng).

- Các hình thức bảo lãnh (nếu có).

- Các yêu cầu khác …


Đặc trưng của thị trường sơ cấp đó là kênh đầu tư giai đoạn một của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nguồn vốn giao dịch tại đây sẽ cung ứng trực tiếp cho những hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức phát hành.

1.2.1.1.2 Thị trường thứ cấp (Secondary Market)

Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã qua giao dịch lần đầu trên thị trường sơ cấp, và đây chính là hàng hoá của thị trường. trên thị trường thứ cấp, hoạt động mua đi bán lại diễn ra giữa các chủ thể tham gia thị trường mà không làm tăng thêm quy mô về vốn đầu tư, không tạo ra nguồn tài chính mới cho các tổ chức phát hành, các khoản thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên giữa hai thị trường này luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau.

Việc mua bán trên thị trường thứ cấp dựa vào:

- Quan hệ cung cầu trên thị trường.

- Các giá trị của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường như: giá trị hiện tại, giá

trị tương lai, xu thế phát triển …

- Tâm lý của nhà đầu tư.

- Các thông tin có liên quan đến tình hình kinh tế - tài chính quốc gia, thế giới

và tình hình hoạt động của các DNNY.

Thị trường sơ cấp là cơ sở, nơi cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp, thị trường sơ cấp là tiền đề hình thành thị trường thứ cấp, nếu không có thị trường sơ cấp cũng sẽ không có thị trường thứ cấp. Nhưng một khi thị trường thứ cấp hoạt động ổn định có hiệu quả và bền vững, đó chính là nguồn động lực thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển và điều này là yếu tố quyết định, giúp cho các tổ chức phát hành chứng khoán thành công, nhằm đạt được mục đích huy động vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác hoạt động của thị trường thứ cấp cũng thoả mãn nhanh chóng nhu cầu chuyển dịch vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.


Thị trường chứng khoán ra đời nhắm đến mục tiêu cung cấp dịch vụ chu chuyển vốn với chi phí thấp, lưu động hoá lĩnh vực đầu tư, làm cho chứng khoán có tính thanh khoản cao, đồng thời đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn nền kinh tế.

Hoạt động mua bán trên TTCK được chia thành: Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung.

Thị trường tập trung được thực hiện qua Sở giao dịch chứng khoán, thông qua hệ thống bảng giao dịch điện tử, tại đây chứng khoán được niêm yết các thông tin có liên quan đến việc mua, bán chứng khoán như: giá, khối lượng, tình hình giao dịch của nhà đầu tư..., việc giao dịch của các nhà đầu tư được thực hiện thông qua các công ty chứng khoán là thành viên của Sở giao dịch, các lệnh mua bán được truyền về hệ thống xử lý trung tâm, sau đó dữ liệu khớp lệnh sẽ được chuyển trả trở lại các công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư đặt lệnh, để hoàn tất thủ tục giao dịch cho nhà đầu tư.

Cũng cần nói rò thêm, Sở giao dịch chứng khoán không phải là tổ chức sở hữu chứng khoán, đây chỉ là nơi giao dịch, và tạo điều kiện cho việc giao dịch được thuận lợi, công bằng, minh bạch và đúng pháp luật cho các chứng khoán của các tổ chức đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch.

Thị trường phi tập trung (Over The Counter Market – Thị trường OTC).

Bên cạnh thị trường giao dịch tập trung, thị trường chứng khoán còn có thị trường giao dịch phi tập trung, tại đây dành cho những công ty chưa đủ điều kiện giao dịch tại Sở giao dịch, việc giao dịch chủ yếu thông qua yết giá và thương lượng trực tiếp giữa người mua và người bán về các chứng khoán mà họ sở hữu, điều kiện giao dịch trên thị trường này tương đối đơn giản, chỉ cần không vi phạm luật pháp trong quan hệ mua bán.

Ngoài hai thị trường chính thức này, trong các quốc gia có TTCK luôn tồn tại

một thị trường thứ ba, đó là các hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng khoán


theo những hợp đồng miệng hoặc trao tay, các hoạt động mua bán này căn cứ vào sự tín nhiệm lẫn nhau của các nhà đầu tư.

Để quản lý thị trường OTC, ở một số nước thành lập Hiệp hội kinh doanh chứng khoán quốc gia, Hiệp hội này ban hành quy chế thị trường, kết nạp và khai trừ thành viên, giám sát việc thực hiện quy chế của các chủ thể tham gia thị trường.

1.2.1.2 Cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán

1.2.1.2.1 Điều hành và giám sát thị trường

Thông lệ chung trên thế giới, điều hành, giám sát TTCK là các cơ quan quản lý của Chính phủ, chịu trách nhiệm chính là Ủy ban Chứng khoán (Commission of Securities Market), đây là cơ quan chức năng chuyên ngành của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán, chỉ thực hiện công việc quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành, giám sát thị trường.

Ủy ban chứng khoán có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh hoạt động trên thị trường, làm nền tảng cho các tổ chức tự quản thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình.

Ngoài ra Ủy ban chứng khoán kiểm soát mọi hoạt động phát hành chứng khoán của các công ty niêm yết nói riêng và các công ty công chúng (Public Company) nói chung.

Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát, thanh tra cũng như xử lý các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường để bảo vệ lợi ích chung, trong trường hợp có hiện tượng vi phạm pháp luật.

Trực tiếp điều hành và giám sát thị trường chứng khoán gồm có hai tổ chức

chính: Sở giao dịch chứng khoán và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.

Sở giao dịch chứng khoán:

Là một tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành viên.

SGDCK thực hiện các chức năng:

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí