Theo qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trước ngày 28/5/2004 tỷ giá kỳ hạn được xác định bằng cách lấy tỷ giá giao ngay cộng với (không có trừ) một biên độ dao động tùy thuộc vào kỳ hạn của hợp đồng. Như vậy, cách xác định tỷ giá kỳ hạn theo thông lệ quốc tế và của Việt Nam là hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa thời hạn tối đa cho một hợp đồng kỳ hạn ngoại hối theo qui định lúc đó chỉ là 180 ngày (6 tháng) liệu có đáp ứng được nhu cầu về thời hạn trong hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối hay không. Có thể nhận thấy trong tương lai các chủ thể tham gia vào thị trường ngoại hối Việt Nam rất đông và mỗi chủ thể có một nhu cầu phòng ngừa rủi ro khác nhau với một khoảng thời gian cũng khác nhau, có thể là vài tháng có khi cả 1 năm. Vì thế, việc điều chỉnh các chính sách quản lý đối với giao dịch kỳ hạn về thời hạn cũng như tỷ giá kỳ hạn là việc làm cần thiết của NHNN.
Chính vì vậy, ngày 28/5/2004, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 648/2004/QĐ- NHNN về việc sửa đổi và bổ sung một số điều khoản của Quyết định 679/2002/QĐ - NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 1/7/2002, trong đó qui định kỳ hạn của hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi từ 3 ngày đến 365 ngày và thay đổi nguyên tắc xác định tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá kỳ hạn được xác định trên cơ sở:
Tỷ giá giao ngay của ngày ký hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi
Chênh lệch giữa 2 mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ bản của VNĐ (tính theo năm) do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu của Mỹ (Fed Funds Target rate) của USD do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) công bố
Kỳ hạn của hợp đồng.
Có thể khẳng định rằng, quyết định này đã đưa cách thức tính tỷ giá kỳ hạn của Việt Nam đến gần đến với thông lệ quốc tế, là tiền đề tốt để thị trường ngoại hối Việt Nam có thể hội nhập với thị trường ngoại hối thế giới.
2.1.2. Đối với giao dịch hoán đổi
Cùng với giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi là một trong những giao dịch đầu tiên xuất hiện trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 đã tạo điều kiện cho các NHTM Việt Nam triển khai việc thực hiện các giao dịch hoán đổi ngoại tệ tại Việt Nam. Liền sau đó năm 1998 là năm thị trường ngoại hối nước ta có nhiều biến động do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á. Các NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần cũng như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đều nhanh chóng ban hành thể lệ giao dịch hối đoái riêng, bao gồm giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi. Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 893/2001/QĐ- NHNN ngày 17/7/2001 về việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ giữa NHNN với các NHTM. Theo đó trong trường hợp thiếu hụt tạm thời nguồn vốn khả dụng bằng tiền VNĐ, các ngân hàng có thể được NHNN thỏa thuận mua USD theo hình thức giao ngay và bán lại lượng USD đó sau một thời gian nhất định theo hình thức kỳ hạn. NHNN sử dụng nguồn tiền tái cấp vốn để thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ với các ngân hàng như một công cụ mở lượng tiền cung ứng nhằm điều hành thị trường theo mục tiêu chính sách tiền tệ. Như vậy giao dịch hoán đổi chỉ được thực hiện giữa NHNN và các NHTM hoặc trên thị trường liên ngân hàng nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn VNĐ tạm thời của các NHTM.
Nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế và đáp ứng những nhu cầu nội tại của thị trường, các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá được xuất hiện tại Việt Nam. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo
Quyết định số 1133/2003/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các doanh nghiệp được sử dụng các công cụ hoán đổi lãi suất.
Trong khi hầu hết cơ sở pháp lý của các giao dịch phái sinh trên thị trường Việt Nam đều mang tính thí điểm và đơn lẻ thì giao dịch hoán đổi lãi suất đã được qui định cụ thể về qui chế thực hiện (theo quyết định 11330/2003). Gần đây nhất phải nói đến Quyết định số 62/2006/QĐ- NHNN ngày 29/12/2006 để thay thế cho Quyết định số 1133/2003. Theo đó, các giao dịch hoán đổi lãi suất được qui định rõ ràng về:
Các trường hợp giao dịch hoán đổi lãi suất được phép thực hiện được qui định trong điều 4 của quyết định,cụ thể như sau:
- Hoán đổi lãi suất một đồng tiền (VNĐ hoặc ngoại tệ).
- Hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền hay hoán đổi lãi suất tiền tệ chéo, trong đó việc trao đổi vốn gốc đầu kỳ do các bên thỏa thuận thực hiện hoặc không thực hiện, nhưng bắt buộc phải có trao đổi vốn gốc vào cuối kỳ theo tỷ giá được thỏa thuận từ ngày hợp đồng hiệu lực.
- Hoán đổi lãi suất bắt đầu trong tương lai, trong đó các bên có thể thỏa thuận về thời điểm trong tương lai mà kể từ thời điểm đó giao dịch bắt đầu có hiệu lực thanh toán.
- Hoán đổi lãi suất cộng dồn, trong đó số lãi phải trả và được nhận được tính theo các mức lãi suất đã thỏa thuận có kèm theo các điều kiện dựa trên biến động tỷ giá và lãi suất của thị trường.
Điều kiện để thực hiện hoán đổi lãi suất với Ngân hàng và các doanh nghiệp tham gia. Các NHTM cần có đủ các điều kiện sau thì được NHNN xem xét cấp giấy phép kinh doanh giao dịch ngoại hối hoán đổi: có quyết định của Thống đốc NHNN cho phép kinh doanh ngoại hối, có qui chế qui định
trạng thái ngoại tệ cho các bộ phận kinh doanh ngoại tệ trong hệ thống, thường xuyên báo cáo về trạng thái ngoại tệ cũng như doanh số cho NHNN; bên cạnh đó ngân hàng cần có vốn tự có từ 1.000tỷ đồng hoặc giá trị tương đương …
Giới hạn về thời hạn và số vốn gốc hoán đổi lãi suất đối với doanh nghiệp.
Lãi suất, cách xác định số lãi ròng, yêu cầu về hợp đồng…
2.1.3. Đối với giao dịch quyền chọn
Ngày 12/02/2003, Ngân hàng nhà nước ban hành công văn số 135/NHNN-QLNH về giao dịch quyền chọn ngoại tệ, đây là công văn qui định về quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ đầu tiên và chính thức tại Việt Nam. Theo đó Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong công văn có qui định cụ thể nhằm triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ ở các ngân hàng như về đối tượng tham gia, đồng tiền giao dịch, thời hạn giao dịch, giới hạn số dư…
Sau 7 năm đi vào hoạt động Quyết định số 17/1998/QĐ - NHNN7 về qui chế giao dịch hối đoái đã biểu hiện những hạn chế không thể khắc phục nên vào ngày 10/11/2004, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 1452/2004/QĐ- NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD thay thế cho quyết định 17/1998. Quyết định này cho phép các TCTD thực hiện các giao dịch hối đoái đều được quyền thực hiện quyền chọn ngoại tệ mà không cần phải xin phép NHNN. Đến thời điểm này NHNN đã chính thức chấm dứt thời gian thí điểm nghiệp vụ này. Đồng thời, qui định kỳ hạn của giao dịch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau sẽ do các TCTD và khách hàng tự do thoả thuận. Bên cạnh đó, theo quyết định này ngoài các TCTD, tổ chức kinh tế, tổ
chức khác và NHNN thì các cá nhân cũng được phép tham gia các giao dịch quyền chọn.
Ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN-QLNH cho phép ngân hàng ACB triển khai thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ. Theo công văn này, NHNN đã đưa ra những qui định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch … Những qui định này là cơ sở để triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ tại các NHTM khác dưới sự cho phép của NHNN.
2.1.4. Kế toán nghiệp vụ liên quan đến công cụ tài chính phái sinh
Để thống nhất việc kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ theo các qui định về hệ thống tài khoản kế toán của các TCTD và chuẩn mực kế toán Việt Nam, ngày 29/8/2006 Ngân hàng Nhà nước có công văn 7704/NHNN - KTTC hướng dẫn các tổ chức tín dụng hạch toán kế toán đối với nghiệp vụ này. Nội dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ mua quyền lựa chọn, nghiệp vụ quyền bán lựa chọn và nghiệp vụ giao dịch quyền chọn giữa hai loại ngoại tệ. Cụ thể:
Nghiệp vụ mua/ bán; chuyển đổi ngoại tệ kỳ hạn được phản ánh ngay vào tài khoản nội bảng với giá trị tại ngày ký kết hợp đồng theo tỷ giá của ngày hôm đó. Các hoạt động mua vào bán ra theo hợp đồng kỳ hạn sẽ thường xuyên được đánh giá lại theo tỷ giá chính thức NHNN công bố hoặc tỷ giá mua giao ngay của tổ chức tín dụng mà cơ chế Nhà nước cho phép. Đến cuối năm tài chính, cần đánh giá lại theo tỷ giá ngày lập báo cáo tài chính.
Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ: được thực hiện ghi nhận và theo dõi trên các tài khoản ngoại bảng. Do nghiệp vụ này không tạo trạng thái mở về
ngoại tệ nên các TCTD không cần phải thường xuyên đánh giá lại giá trị thị trường. Các TCTD phải ghi nhận số tiền gốc chuyển đổi lượt đi trong thỏa thuận hoán đổi ở các tài khoản ngoại bảng để theo dõi thực hiện khi đến hạn.
Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ: được thực hiện ghi nhận và theo dõi trên tài khoản ngoại bảng. Phí đã nhận của hợp đồng quyền chọn được ghi nhận là Nợ phải trả do khả năng phải thực hiện nghĩa vụ: thiệt hại lợi ích kinh tế trong tương lai và có thể được xác định một cách đáng tin cậy. Bên cạnh đó, giao dịch bán quyền chọn chỉ có thể phát sinh lỗ. Số lỗ phát sinh nhưng chưa thực hiện sẽ được xác định lại liên tục trên cơ sở: giá thị trường, giá gốc của đối tượng quyền chọn và khối lượng giao dịch, thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
2.2. Thực trạng giao dịch kỳ hạn
Ngày nay, ở các nước phát triển, giao dịch ngoại hối kỳ hạn phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trên thị trường ngoại hối. Ngày càng có nhiều nhà xuất nhập khẩu, đầu tư quốc tế sử dụng thị trường kỳ hạn trong giao dịch ngoại hối. Giao dịch kỳ hạn rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá với các khoản thu chi XNK bằng ngoại tệ. Bên cạnh đó, đây còn là công cụ để các nhà đầu tư đầu cơ kiếm lời nên càng khiến cho thị trường giao dịch ngoại hối kỳ hạn ngày càng trở nên sôi động.
Tuy nhiên, đối với thị trường ngoại hối Việt Nam thì sự phát triển của giao dịch kỳ hạn và hoán đổi vẫn còn phải tiến một bước dài mới có thể theo kịp thế giới, điều này được thể hiện tại bảng dưới đây:
Bảng 4. Tỷ trọng của các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trên VinaForex
Tỷ trọng kỳ hạn | Tỷ trọng mua, bán kỳ hạn | ||||
Tổng doanh số mua bán % | Tổng mua,bán kỳ hạn % | Tổng mua bán kỳ hạn % | Mua kỳ hạn % | Bán kỳ hạn % | |
1998 | 100 | 10.6 | 100 | 38 | 62 |
1999 | 100 | 2.8 | 100 | 39 | 61 |
2000 | 100 | 5.5 | 100 | 24 | 76 |
2001 | 100 | 5.6 | 100 | 19 | 81 |
2002 | 100 | 5.6 | 100 | 14 | 86 |
2003 | 100 | 4.9 | 100 | 17 | 83 |
2004 | 100 | 5.2 | 100 | 18 | 82 |
2005 | 100 | 5.5 | 100 | 22 | 78 |
2006 | 100 | 5.6 | 100 | 23 | 77 |
2007 | 100 | 5.7 | 100 | 25 | 75 |
2008 | 100 | 5.9 | 100 | 26 | 74 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển - 4
- Kinh Nghiệm Ứng Dụng Và Phát Triển Các Công Cụ Phái Sinh Trên Thị Trường Ngoại Hối Quốc Tế
- Thực Trạng Ứng Dụng Và Phát Triển Các Công Cụ Phái Sinh Trên Ttnh Việt Nam
- Báo Cáo Các Giao Dịch Hoán Đổi Lãi Suất Còn Đang Hiệu Lực Thực Hiện Tháng 6/ 2005
- Tổng Hợp Các Công Cụ Phái Sinh Tài Chính Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại
- Định Hướng Phát Triển Thị Trường Ngoại Hối Việt Nam Trong Thời Gian Tới
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Từ bảng trên có thể thấy:
- Giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (khoảng 5.1%) trên tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của các NHTM. Điều này cho thấy giao dịch này tại các NHTM chưa được hưởng ứng như mong đợi ban đầu.
- Tỷ trọng mua và bán kỳ hạn quá chênh lệch, trong đó, mua kỳ hạn chỉ chiếm trung bình khoảng 24% trong khi bán kỳ hạn chiếm tới gần 76%. Điều này cho thấy, ngoài mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá, các tổ chức kinh tế tham gia giao dịch kỳ hạn chỉ nhằm mục đích chính là có được ngoại tệ trong tương lai để phục vụ cho nhu cầu thanh toán.
- Vì tỷ trọng NHTM bán kỳ hạn lớn hơn rất nhiều so với mua kỳ hạn (trung bình lớn gấp 3 lần), nên có thể nói rằng thị trường ngoại hối Việt Nam luôn ở trạng thái khan hiếm ngoại tệ, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách mua ngoại tệ để phòng trường hợp khan hiếm ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Mặt khác, tình trạng chênh lệch quá lớn về tỷ trọng mua/ bán kỳ hạn đã làm cho trạng thái ngoại tệ của các NHTM ở trạng thái đoản nghĩa là chịu rủi ro khi tỷ giá tăng nhiều hơn so với dự kiến. Nó cũng dẫn đến việc các NHTM phải lập dự phòng cho biến động tỷ giá tăng, điều này làm tăng chi phí của các NHTM. Vì vậy, đây có thể là một trong những tác động tới sự sẵn sàng cung cấp dịch vụ này đến khách hàng của các NHTM.
Qua những thông tin về thực trạng của giao dịch kỳ hạn ở trên có thể dễ dàng nhận thấy, mặc dù giao dịch kỳ hạn là loại giao dịch xuất hiện sớm trên thị trường ngoại hối Việt Nam và đã đi vào hoạt động được hơn 10 năm nhưng đến nay nó vẫn chưa thực sự phát huy được những thế mạnh của mình trong việc giúp các thành phần tham gia thị trường phòng ngừa rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận thông qua đầu cơ.
2.3. Thực trạng giao dịch hoán đổi