Diện Tích, Năng Suất, Sản Lượng Lúa Nước Ta Giai Đoạn 2017- 2019

- Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư vào quá trình sản xuất lúa thì tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. Nếu tỷ số này càng cao thì sản xuất càng có hiệu quả.

- Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC): Theo chỉ tiêu này thì cứ một đồng chi phí trung gian được bỏ vào quá trình sản xuất lúa thì tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Tỷ trọng này càng lớn thì hiệu quả sản xuất lúa càng cao.

-Thu nhập hỗn hợp trên tổng cho phí (MI/TC): Phản ánh cứ một đồng chi phí tạo ra

được bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp.

- Giá trị tăng thêm trên giá trị sản xuất (VA/GO): chỉ tiêu này cho biết việc bỏ ra một đồng giá trị sản xuất sẽ thu được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Tình hình sản xuất lúa gạo trên Thế giới

Trên thế giới, lúa chiếm một vị trí quan trọng, đặc biệt ở khu vực Châu Á. Ở Châu Á, lúa là món ăn chính giống như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê của dân Châu Phi hoặc lúa mì của dân Châu Âu và Bắc Mỹ. Thống kê của tổ chức lương thực thế giới (FAO, 2015) cho thấy, có 114 nước trồng lúa, trong đó 18 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1 triệu ha tập trung ở Châu Á, bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Vệt Nam, Myanmar... 31 nước có diện tích trồng lúa trong khoảng 100.000ha - 1.000.000 ha. Trong đó có 27 nước có năng suất trên 5 tấn/ha đứng đầu là Ai Cập (9.7 tấn/ha), Úc (9.5 tấn/ha) El Salvador (7.9 tấn/ha).

Diện tích trồng lúa ở Châu Á dẫn đầu về thế giới, nhưng năng suất lúa không cao. Từ năm 1990 đến nay, năng suất lúa thế giới vẫn liên tục tăng và trung bình đạt 4,38 tấn/ha năm 2010. Mặc dù năng suất lúa của các nước Châu Á còn thấp nhưng do có diện tích sản xuất lớn nên Châu Á vẫn là khu vực đóng góp lúa gạo chủ yếu và quan trọng trên thế giới.

Thống kê của tổ chức lương thực thế giới (FAO,2008) còn cho thấy, diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rò rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong vòng 19 năm đó, diện

tích trồng lúa trên thế giới tăng bình quân 1,53 riệu ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm và đạt cao nhất vào năm 1999 (156,8 triệu ha) với tốc độ tăng chậm với tốc độ tăng trưởng bình quân 630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 155,1 triệu ha.Từ năm 2005 đến 2008 diện tích lúa gia tăng liên tục đạt 159,0 triệụ ha cao nhất kể từ năm 1995 tới nay.

Ở Ấn Độ, một nước sản xuất gạo lọt top 4 thế giới, ước tính chính thức lần thứ 2 cho sản xuất lúa gạo tại Ấn Độ vừa được công bố giữa tháng 2 năm 2017, cho thấy sản lượng vụ chính năm 2016 của nước này tăng 5% lên 144 triệu tấn lúa, tương đương 96 triệu tấn gạo, cao hơn 3,2 triệu tấn so với dự báo chính thức trước đó, chủ yếu nhờ mùa mưa diễn biến thuận lợi. Theo các nhà chức trách Ấn Độ, kết quả sản xuất rất tích cực của vụ chính đã giúp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của sản lượng lúa vụ hai suy giảm 1,2%. Nguyên nhân chính là do nguồn cung nước hạn chế tại các bang miền Nam, tác động tiêu cực tới cả các khu vực sản xuất được thủy lợi hóa trong năm thứ 3 liên tiếp. Theo đó, nhìn chung, Ấn Độ dự báo tổng sản lượng lúa năm 2016 là 163,3 triệu tấn, tương đương 108,9 triệu tấn gạo, tăng 4% so với năm 2015 và cao hơn 1,8 triệu tấn so với dự báo của FAO hồi tháng 12/2016. FAO cũng đưa ra dự báo sản lượng lúa của nước này đạt 165,3 triệu tấn, tương đươnB g 110,2 triệu tấn gạo năm 2017, cao hơn 1,2% so với mức sản lượng năm 2016. Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để đưa ra dự báo cho vụ sản xuất sắp tới do yếu tố chính là mùa mưa tại khu vực Tây Nam nước này.

Thái Lan, với nền sản xuất lúa gạo lâu đời và là một nước xuất khẩu gạo hầu như không gián đoạn suốt gần 2 thế kỷ, không phải ngẫu nhiên mà Thái Lan đứng đầu thế giới một thời gian dài về giá trị xuất khẩu lúa gạo. Các nhà chức trách Thái Lan cho biết nguồn cung nước dồi dào cho hệ thống thủy lợi vào vụ hai của niên vụ 2016/17 từ đầu tháng 4 đã đưa diện tích thủy lợi hóa đạt 1,2 triệu ha, có với chỉ 510.000 ha kế hoạch được phê duyệt cho vụ hai và tăng 560.000 ha so với cùng kỳ năm ngoái, khi hoạt động sản xuất bị tác động nặng nề bởi tình trạng thiếu nước. Sự cải thiện nhanh chóng này là

nhờ các biện pháp chính sách của chính phủ Thái Lan khuyến khích nông dân chuyển sang các cây trồng khác, và các nhà chức trách cũng khuyến cáo nông dân hạn chế gieo trồng lúa vụ 3, vốn thường bắt đầu sau khi thu hoạch lúa gieo trồng hồi tháng 4 chuẩn bị kết thúc. Xét đến sự tiến triển này về cơ sở hạ tầng sản xuất lúa gạo Thái Lan, FAO nâng dự báo sản xuất lúa của Thái Lan thêm 1,5 triệu tấn lên 32,6 triệu tấn, tương đương 21,6 triệu tấn lúa, tức tăng 14% so với sản lượng năm 2015. Mức tăng này phản ánh sản lượng tăng cả ở vụ chính và vụ hai nhờ điều kiện sản xuất thuận lợi được duy trì. Về triển vọng sản xuất năm 2017, FAO dự báo sản xuất lúa tại Thái Lan sẽ tăng

700.000 tấn so với năm 2016 lên 33,3 triệu tấn, tương đương 22 triệu tấn gạo. FAO dự báo sản xuất lúa gạo Thái Lan tăng là do nông dân tại nước này tiếp tục lựa chọn trồng lúa thay vì các cây trồng khác, dù chính phủ nước này đã hạ mục tiêu sản xuất lúa từ 27 triệu tấn xuống 25 – 26 triệu tấn trong năm 2016. Giá lúa tại Thái Lan đang gặp áp lực lớn do sự phục hồi sản lượng, dù chính phủ nước này đã triển khai chương trình thế chấp lúa gạo tại chỗ đối với 3 triệu tấn lúa và tạo động lực cho các trung gian thương mại dự trữ các nguồn lúa thu hoạch vụ chính. Đến tháng 2/2017, giá lúa cổng trại giảm 6

– 14% so với cùng kỳ năm 2016, ở mức 7.400 – 10.900 Baht/kg, tương đương 214 – 317 USD/tấn. Giá lúa giảm mạnh cũng gây áp lực lên giá các ngũ cốc thay thế. Trong trường hợp này là ngô, khi chính phủ Thái Lan liên tục kêu gọi nông dân chuyển từ trồng lúa sang trồng ngô.

1.2.2 Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam

Về phía Việt Nam, vẫn luôn đứng trong top 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, cây lúa là cây trồng chính và lâu đời, cây lúa được phân bố khắp mọi miền của đất nước từ Bắc vào Nam, là một trong những nước có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa. Hơn 70 % dân số Việt nam sống bằng nghề trồng lúa, nhân dân ta rất cần cù, sáng tạo và giàu kinh nghiệm trong nghề trồng lúa nước, được kế thừa những kinh nghiệm của cha ông và đúc rút nhiều thành công trong công tác chăm sóc và gieo trồng. Theo ước tính chính thức mới nhất,

sản lượng lúa của Việt Nam năm 2019 đạt 43,45 triệu tấn, tương đương 28,3 triệu tấn gạo, giảm 1.4 % so với năm 2018. Nguyên nhân là do thiếu nước, xâm mặn nghiêm trọng và bão làm giảm năng suất trung bình. Nông dân Việt Nam hiện đang thời gian cao điểm sản xuất vụ chính đông xuân. Đến giữa tháng 3/2020, hoạt động sản xuất vụ lúa đầu tiên và lớn nhất trong 3 vụ được báo cáo là phục hồi so với hoạt động sản xuất hồi năm ngoái, đạt diện tích gieo trồng 3,04 triệu ha. Tại ĐBSCL, khu vực sản xuất chiếm một nửa sản lượng vụ đông xuân, vấn đề xâm mặn vẫn còn tác động và mưa đến trễ được cho là có thể làm giảm năng suất. Năm 2019, nguồn nước không đủ cho hệ thống thủy lợi và tình trạng xâm mặn đã làm giảm 10% năng suất trung bình vụ chính tại ĐBSCL xuống còn 6,4 tấn/ha. Kết quả thu hoạch sớm cho thấy thậm chí năng suất còn có thể giảm thấp hơn trong năm nay. Tình hình sản xuất tại ĐBSH tốt hơn nhờ thời tiết tốt. Hiện khu vực ĐBSCL đang chuẩn bị xuống giống vụ hè thu. Tuy vậy, sự tụt giảm sản lượng trong vụ đầu bị trễ có thể duy trì mức giá lúa ở mức cao.

Bảng 1.1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa nước ta giai đoạn 2017- 2019


Chỉ Tiêu

ĐVT

2017

2018

2019

2018/2017

2019/2018

+/-

(%)

+/-

(%)

Diện Tích

Nghìn ha

7705,2

7570,4

7470,1

-134,8

-1,74

-100,3

-1,32

Năng suất

tạ/ha

55,5

58,1

58,2

+2,6

+4,68

+0,1

+0,11

Sản lượng

Nghìn tấn

42738,9

44046,5

43450

+1306,6

+3,05

-596,5

-1,35

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của các hộ nông dân trên địa bàn xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế - 5

(Nguồn: Niên giám thống kê 2019) Qua số liệu thực tế, diện tích sản xuất lúa của nước ta qua 3 năm giảm xuống. Từ 7705,2 nghìn ha (năm 2017) giảm xuống 7470,1 nghìn ha (năm 2019), tức giảm 235,1 nghìn ha so với năm 2017, giảm 100,3 nghìn ha so với năm 2018 tướng ứng giảm 1,32

%. Tuy vậy năng suất lại tăng từ 55,5 tạ/ha (năm 2017) lên 58,1 tạ/ha (năm 2018). Đến năm 2019, năng suất lúa bị chững lại chỉ tăng từ 58,1 tạ/ha (năm 2018) lên chỉ 58,2 tạ/ha (năm 2019) tức tăng 0,1 tạ/ha tương ứng tăng 0,01 %. Sản lượng lúa lúc tăng lúc giảm qua 3 năm không ổn định trong khi diện tích giảm dần qua từng năm. Sản lượng năm

2018 đạt 44046,5 nghìn tấn tăng 1306,6 nghìn tấn so với năm 2017 là 42738,9 nghìn tấn. Năm 2019 đạt 43450 nghìn tấn nhưng giảm 596,5 nghìn tấn so với năm 2018 tương ứng giảm 1,35%.

Có thể nhận thấy được lí do giảm diện tích gieo trồng bởi vì có sự vào cuộc của chính phủ về việc đẩy mạnh cơ cấu tỷ trọng các ngành nghề dịch vụ, công nghiệp trong cơ cấu tỷ trọng chung và giảm cơ cấu tỷ trọng của ngành nông nghiệp khiến đất đai nông nghiệp bị thu hồi chuyển thành đất sản xuất công nghiệp, phục vụ cho các ngành công nghiệp dịch vụ công nghệ cao đang ngày càng xâm nhập khiến kinh tế Việt Nam phát triển nhanh như vũ bão hiện nay. Nhìn chung ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam có được kết quả như vậy là nhờ việc thực hiện các chủ trương chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, thực hiện việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là khoa học về di truyền giống lúa có vai trò rất to lớn. Bộ giống lúa thường xuyên được chọn lọc lai tạo, giữ gìn và bỗ sung, thay thế nhằm để bảo tồn những giống quý, có năng suất cao, phẩm chất tốt và phù hợp với từng điều kiện tự nhiên khác nhau bởi những giống lúa khác nhau, loại bỏ những giống kém chất lượng, hiệu quả kinh tế thấp, đồng thời tích lũy và tái tạo, phát triển những bộ giống có năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu được với từng điều kiện bất lợi của môi trường. Trên cơ sở đó dự báo Việt Nam có khả năng xuất khẩu đến 4,5 triệu tấn gạo năm 2020.

1.2.3 Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế là một Tỉnh nằm ở duyên hải miền Trung, tuy phải chịu nhiều trận lũ lụt, hạn hán nhưng sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh không vì thế mà giảm đi, sản xuất nông nghiệp vẫn được chú trọng dù đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với đất nước.

Nhìn chung trong 3 năm trở lại đây, tình hình sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều biến đổi.

Bảng 1.2: Tình hình sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2017 - 2019





2019/2017

2017

2018

2019

+/-

%

Diện tích (nghìn ha)

54,9

54,7

54,8

-0,1

99,8

Năng suất (tạ/ha)

59,6

61,1

59,6

0

100

Sản lượng ( nghìn tấn)

327,4

334,4

326,4

-1

99,7

Chỉ tiêu

(Nguồn: Tổng cục thống kê)


Qua bảng số liệu 1.2 ta thấy năng suất lúa ở Thừa Thiên Huế khá cao. Đỉnh điểm là năm 2018 năng suất đạt đến 61,1 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha, tăng 2,5% so với năm 2018, sản lượng cả năm đạt đến 334,4 nghìn tấn, tăng 2,1% so với 2018.

Tỉnh Thừa Thiên Huế có mục tiêu đến năm 2025 phải ổn định diện tích gieo trồng lúa nước khoảng 51.000 – 52.000 ha/năm, năng suất lúa bình quân đạt trên 60 tạ/ha, diện tích lúa chất lượng cao đạt 17.000 ha, tỷ lệ sử dụng giống lúa xác nhận đạt trên 98% diện tích gieo cấy, diện tích cánh đồng lúa mẫu lớn có liên kết trong tiêu thụ khoảng

5.500 ha….

Tuy mỗi năm phải chịu nhiều trận lũ lụt lớn, nhưng người dân Thừa Thiên Huế đã biết vượt qua khó khăn, tìm tòi các biện pháp khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng lúa gạo sản xuất ra. Bên cạnh đó được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, Tỉnh, chính sách của Nhà nước mà sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế có được kết quả như hiện nay.

CHƯƠNG 2 : ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT LÚA CỦA CÁC HỘ NÔNG DÂN TRÊN ĐỊA BÀN

XÃ LỘC BỔN, HUYỆN PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu

2.1.1 Điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Lộc Bổn là một xã ở đồng bằng bán sơn địa cách thị trấn Phú Lộc 18km về phía nam và cách thành phố Huế 20km về phía Bắc. Có tọa độ địa lý từ 16017’ đến 16023’ vĩ độ Bắc và từ 107041’ đến 107047’ kinh độ Đông.

Địa giới hành chính của xã như sau:

- Phía Đông giáp xã Lộc Sơn, xã Lộc An huyện Phú Lộc

- Phía Tây giáp thị xã Hương Thủy

- Phía Nam giáp xã Xuân Lộc, huyện Phú Lộc và xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy

- Phía Bắc giáp với xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy

Giao thông có hai trục chính là đường sắt xuyên qua và có đường Quốc lộ 1A đi qua, hiện tại nằm tiếp giáp với thị xã Hương Thủy và thị xã Lộc Sơn trong tương lai, do đố tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán trên thị trường ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam nhằm phát triển KT-XH theo hướng mở cửa bên ngoài.

Tổng diện tích đất của xã là 3.273,23 (ha) Địa bàn được phân bố thành 9 thôn dân cư, bao gồm: thôn Hòa Vang 1, thôn Hòa Vang 2, thôn Hòa Vang 3, thôn Hòa Vang 4, thôn Bình An, thôn Hòa Mỹ, thôn Thuận Hóa, thôn Dương Lộc, thôn Hòa Lộc và 2 HTX nông nghiệp.

2.1.1.2. Địa hình, thổ nhưỡng

Địa hình là một trong những yếu tố tự nhiên cơ bản gây ra sự phân hóa khí hậu và từ đó ảnh hưởng đến sự phân bố cơ cấu cây trồng.

Lộc Bổn là xã đồng bằng bán sơn địa được phân bố thành 3 vùng:

• Phía Tây là vùng đồi núi có độ dốc thoải nên phù hợp để phát triển trồng rừng.

• Phía Đông là vùng thấp trũng phù hợp để trồng lúa nước 2 vụ và nuôi cá nước ngọt.

• Trung tâm là khu vực có địa hình khá bằng phẳng, có Quốc lộ 1A tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm), phát triển nền kinh tế và các khu dân cư, có đủ diện tích để phát triển theo xu thế đô thị hóa. Ngoài ra, ở vị trí trung tâm còn có con sông Nong bắt nguồn từ vùng đồi núi thấp đi qua và đỗ về con sông Đại Giang.

Đất đai là thành phần quan trọng trong môi tường sống, là địa bàn phân bố của các khu dân cư, an ninh quốc phòng là nơi xây dựng các cơ sở kinh tế - văn hóa xã hội. Là một trong những nguồn tài nguyên quý giá và đất đai cũng là nguồn tài nguyên có hạn, nếu tăng việc sử dụng đất vào mụch đích này thì giảm diện tích đất sử dụng vào mụch đích khác. Việc sử dụng đất lãng phí, không hiệu quả hủy hoại đất đai cũng như tốc độ gia tăng về dân số đặc biệt ở các khu vực nơi tập trung dân cư đông đúc khiến cho đất đai ngày càng bị lấn chiếm và trở nên khan hiếm.

2.1.1.3. Thời tiết, khí hậu

Là xã nằm trong tỉnh thuộc vùng duyên hải miền trung nên mang đặc tính khí hậu của vùng nhiệt đới, gió mùa, là nơi tiếp giáp giữa 2 vùng Bắc- Nam nên chịu ảnh hưởng của khí hậu cả 2 miền. Có khí hậu khắc nghiêt, khí hậu trong năm chia 2 mùa nắng, mưa rò rệt: mùa nắng bắt đầu từ tháng 03 kéo dài đến tháng 07, còn mùa mưa bắt đầu từ tháng 08 đến tháng 02 năm sau.

Nhiệt độ: Nhiệt độ thấp khoảng từ 100C -190C, nhiệt độ trung bình khoảng từ 200C

-300C, nhiệt độ cao khoảng từ 310C-380C.

Độ ẩm không khí trung bình là 82%, độ ẩm tuyệt đối là 15% tính chất của các dòng không khí khác nhau trong các mùa đã tạo nên thời kì khô và ẩm khác nhau, mùa đông có độ ẩm lớn và có nhiều mưa nhất.

Lượng mưa: Do bị ảnh hưởng của dãy núi Phú Gia, Ca Tong, Phước Tượng nên ở đây có lượng mưa tương đối cao, lượng mưa trung bình năm trong khoảng từ 2800-

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 05/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí