Một Số Đặc Điểm Về Nội Dung Tư Tưởng Của Kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.


Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đặt trong bối cảnh xã hội – văn hoá và tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy được mối liên hệ biện chứng giữa hoàn cảnh xã hội và cá nhân nhà văn.

Về phương diện xã hội, một hoàn cảnh xã hội đặc biệt, với sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh thần của xã hội, cùng sự ra đời của các tổ chức cách mạng, các phong trào yêu nước mà đỉnh cao là Đảng Cộng sản Đông Dương, là những yếu tố khách quan hình thành nên tư tưởng và nhân cách của nhà văn - chiến sĩ Nguyễn Cát Ngạc. Ở ông, tư cách nhà văn và tư cách người chiến sĩ cách mạng hoà làm một. Đó là lý do để ngòi bút văn chương của ông luôn thấm đẫm tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc.

Về phương diện văn học, có thể nói, với những tác phẩm văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (đặc biệt là về kịch nói) vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình này.

Tìm hiểu, nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được làm sáng rõ hơn những giá trị của các tác phẩm mà ông đã viết trên đường cách mạng bằng tất cả đam mê và tâm huyết của mình, để thấy được những cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng và nền văn học Việt Nam mà lâu nay vẫn khuất lấp sau lớp lớp thời gian.


Chương II


MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ KỊCH BẢN VĂN HỌC CỦA NAM XƯƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

2.1. Tóm tắt các kịch bản của Nam Xương

Như đã trình bày ở chương I, đến nay qua khảo sát của chúng tôi, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn để lại hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội là: Chàng Ngốc (hài kịch năm hồi), Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi). Trong di cảo ông còn các kịch bản: Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh), Văn Chủng (bi kịch năm hồi), Tội ăn cắp (kịch vui), Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui).

Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của nam xương - nguyễn cát ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn) - 3

Chúng tôi xin lần lượt tóm tắt lại các vở kịch trên để tiện cho việc nghiên cứu.

Chàng Ngốc (viết năm 1930) là câu chuyện xảy ra trong một gia đình làm nghề buôn bán nhỏ. Chuyện xoay quanh sự kiện Sỉn ông - người bố - một người keo kiệt, bủn xỉn, và tham của, thấy Ngốc sinh là một thanh niên có của nên ưng thuận gả con gái như ông nói với Sỉn bà “gả cho cậu ấm Ngốc lấy mấy nghìn chơi”. Nhưng cô Cỏn, một cô gái tân thời, có nhan sắc và học thức, không chấp nhận sự gả bán này. Cô đã có người yêu là Tình sinh, một sinh viên cao đẳng. Vì thế, cô quyết liệt bảo vệ tình yêu của mình. Để làm mối cho cô Cỏn với Ngốc sinh, Sỉn ông nhờ cậy Tư Sùng, một bà mối khôn khéo và rất thực dụng. Tư Sùng xui Ngốc sinh nói dối để gia đình Sỉn ông tin cậu là người học hành tử tế, lại là con nhà tri huyện rất giàu có. Nhưng sự dối trá về việc học hành và gia thế của Ngốc sinh đã bị cô Cỏn bóc mẽ. Mặc dù vậy, Sỉn vẫn nhất định gả con gái cho Ngốc. Tình sinh và cô Cỏn lập mưu để hoãn cưới bằng cách cô Cỏn giả câm còn Tình sinh nhờ Tư Sùng thuyết phục Sỉn ông gả con gái cho mình. Tư Sùng thấy việc mai mối cho Ngốc sinh đã khó khăn hơn, nên quay sang nhận lời Tình sinh, nhưng đòi


Tình sinh đưa tiền trước. Tình sinh bí quá, vay bạn bè không được, tình cờ gặp Ngốc sinh, thấy Ngốc sinh tỏ ra thân thiết, liền kể hết mưu của mình rồi vay tiền đưa cho Tư Sùng. Phát hiện được mưu của Tình sinh, Ngốc sinh vội vàng mang tiền đến trước, giục Sỉn ông cho đón dâu ngay. Tình sinh định đưa cô Cỏn đi trốn, nhưng bị gia đình Sùng ông phát hiện. Hai ông bà chửi mắng cô Cỏn thậm tệ. Nhưng cuối cùng, chính Ngốc sinh ngộ ra, nhường lại cô Cỏn cho Tình sinh.

Ông Tây An Nam (viết năm 1931) là câu chuyện xảy ra trong gia đình Cưu ông. Cưu ông là người ưa danh giá, cho con là Lân sang Pháp học, đỗ cử nhân. Nhưng cử Lân nhập làng Tây, quay lại khinh bỉ dân tộc mình. Cử Lân về nước, mẹ là Cưu bà ra đón, y không thèm nhận bà mẹ bản xứ quê mùa, liền vu cho bà là kẻ cắp, gọi cẩm cho vào bóp. Y thuê khách sạn ở vì ghê sợ sinh hoạt của người An Nam. Về thăm nhà, y chỉ nói tiếng Pháp, bắt gã hầu phiên dịch ra tiếng Việt. Y sỉ mắng, nhục mạ mọi người, kể cả cha mẹ mình. Y nói với cụ Huấn, một người họ hàng xa với Cưu bà rằng “Ma patrie est la France, je suis Francais” (Tổ quốc tôi là Đại Pháp, tôi là người Đại Pháp). Cha mẹ mời ăn cơm y không ăn, mời uống nước y cũng không uống, vì sợ mùi An Nam. Nhưng đến khi gặp Kim Ninh, con gái cụ Huấn, một cô gái tân thời rất đẹp, thì y đem lòng mê mẩn. Y tìm cách trò chuyện với Kim Ninh, nhưng Kim Ninh nhất định không chịu nói tiếng Pháp nên y buộc phải nói tiếng Việt. Y giãi bày với Kim Ninh là: “Em ạ, anh xưa nay rất là hiểu rõ cái văn minh Âu tây…vậy muốn cho người ta quý mình, trọng đãi mình, trước hết ta không làm người Việt Nam nữa ”. Y dọn về nhà ở, lấy lòng cha mẹ và cụ Huấn để qua đó vận động họ tác thành cho mình và Kim Ninh. Nhưng Kim Ninh đã có người yêu là Tham Tứ, lại khinh thường thói vong bản của cử Lân nên nhất mực từ chối. Trước mặt mọi người, Kim Ninh làm cho cử Lân phải bộc lộ sự vong bản của y. Bị bẽ mặt, cử Lân trở lại nguyên hình là kẻ “Tây


hoá”, khinh thường dân tộc mình. Y hùng hổ quát đầy tớ: “Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu!”.

Tây Thi (không rõ năm sáng tác) viết theo dã sử Trung Quốc. Chuyện lấy không gian ở cả nước Việt và nước Ngô. Để trả thù Ngô Phù Sai đã từng hành hạ mình, Việt vương Câu Tiễn nghe theo kế mỹ nhân của tướng quốc Văn Chủng, cho tìm con gái đẹp ở nước Việt cống nộp cho vua Ngô nhằm làm mê hoặc vua Ngô, để nước Việt thừa cơ mang quân sang báo thù. Phạm Lãi là tướng quốc giỏi của Việt vương Câu Tiễn được cử đi khắp nước tuyển người đẹp. Đến làng dệt lụa Trữ La, Phạm Lãi gặp Tây Thi. Anh hùng gặp mỹ nhân nên hai người đem lòng yêu nhau. Nhưng vì nghiệp lớn, Phạm Lãi đành mang Tây Thi cũng một người đẹp nữa là Trịnh Đán về cung. Sau một năm tập luyện hát múa, Tây Thi và Trịnh Đán được ra mắt Việt vương Câu Tiễn. Thấy Tây Thi quá đẹp, Câu Tiễn định giữ lại làm thiếp, nhưng Văn Chủng và Phạm Lãi can ngăn, nên đành từ bỏ ý định đó, sai Phạm Lãi đưa hai nàng đi cống Ngô. Nhờ sự ủng hộ của Trịnh Đán, Phạm Lãi và Tây Thi được gần gũi nhau suốt chặng đường dài sang Ngô. Khi được đưa vào làm phi tần của Phù Sai, Tây Thi làm cho Phù Sai mê mẩn, quên cả việc triều chính. Tướng quốc nước Ngô là Ngũ Viên thấy trước nguy cơ mất nước nên hết lòng can gián Phù Sai. Tây Thi thấy thế, sợ mưu không thành, vờ đòi đi tự tử. Phù Sai liền hạ lệnh cho Ngũ Viên phải chết. Thừa thế, Câu Tiễn đem quân sang đánh Ngô. Quân Việt đã vào trong thành mà Phù Sai vẫn ở đài Cô Tô, xem Tây Thi và cung nữ múa hát. Tây Thi bỏ trốn xuống thuyền, lúc đó Phù Sai mới nhận ra Tây Thi lừa dối mình, bèn đuổi theo chém Tây Thi. Phạm Lãi giao đấu và giết được Phù Sai, nhưng cũng bị Phù Sai chém trọng thương. Vở kịch kết thúc ở cảnh Tây Thi nói lời vĩnh biệt và Phạm Lãi cũng ngã gục xuống.

Văn Chủng ( hay Tục Tây Thi, chưa rõ năm sáng tác ) như là phần tiếp theo của Tây Thi - Phạm Lãi. Bối cảnh của vở kịch là sau khi Việt vương Câu Tiễn đã lấy được nước Ngô, tưởng Phạm Lãi đã chết khi giao tranh với Phù


Sai trên đài Cô Tô, nên Câu Tiễn cho gọi Văn Chủng từ nước Việt sang, giao cho Văn Chủng dùng kế sách bình định nước Ngô, và lập đàn tế Phạm Lãi cùng Tây Thi, Trịnh Đán. Văn Chủng đang cho người lập đàn tế thì Phạm Lãi xuất hiện. Phạm Lãi khuyên Văn Chủng nên sớm rút khỏi trướng Câu Tiễn, kẻo Câu Tiễn sẽ giết hại, vì theo Phạm Lãi, Câu Tiễn là người “chỉ có thể gần khi gian nan, không thể ở gần khi giầu thịnh”. Văn Chủng không tin lời Phạm Lãi, lại còn dùng kế giữ chân Phạm Lãi ở lại để phò giúp Câu Tiễn. Nhân lúc Việt hậu là vợ Việt vương Câu Tiễn nổi lòng ghen, tìm giết Tây Thi vì sợ Tây Thi sẽ làm cho Việt vương mê đắm, Phạm Lãi bèn dùng mưu giải thoát cho Tây Thi, rồi đem Tây Thi trốn đi xa. Đến Đào thôn, Phạm Lãi cùng Tây Thi dừng lại, Phạm Lãi cải tên là Đào Chu công, lập Đào gia trang để ẩn tránh. Văn Chủng cho võ tướng là Mạnh Phong đem ba nghìn quân tìm đến tận nơi, bao vây Đào gia trang. Được biết Văn Chủng đã được Câu Tiễn điều về trấn giữ ở kinh đô Việt, Phạm Lãi liền nói cho Mạnh Phong biết là Văn Chủng đang gặp nguy hiểm, khuyên Mạnh Phong bỏ quân lại, về ngay kinh đô Việt để bảo vệ Văn Chủng. Mạnh Phong về đến nơi thì Văn Chủng đã bị Câu Tiễn hạ lệnh tự xử, con là Văn Kính đã bị Câu Tiễn đem đi. Mạnh Phong đau đớn cho người đi báo tin và giải vây cho Phạm Lãi, còn mình tìm đường đi cứu con Văn Chủng.

Thuốc tê Ô Cấp là vở kịch vui ngắn, bối cảnh là Phòng kiểm duyệt của Hội Khai trí ở Hà Nội.Văn sĩ Hồng Hà đến lấy bản thảo một vở kịch xin kiểm duyệt, nhưng văn sĩ kiêm nhân viên kiểm duyệt Tua Rua chưa duyệt. Tua Rua lên tiếng chê bai vở kịch của Hồng Hà và khoe khoang vở kịch do mình viết. Hồng Hà bực lắm, phàn nàn với một văn sĩ là Sài Thành, cũng đến lấy lại bản thảo. Sài Thành lên tiếng phản ứng, liền bị Tua Rua giở thói độc đoán ra, từ chối không kiểm duyệt. Hai văn sĩ đang than thở với nhau thì Mai Hương, chủ một nhà xuất bản đến. Mai Hương nịnh Tua Rua văn hay, viết được tác phẩm


xuất sắc, liền được Tua Rua cấp dấu kiểm duyệt ngay. Mai Hương chìa bản thảo cho hai văn sỹ kia xem và kết luận về Tua Rua:

“Tự ái, Tiền, Tiên, ba giáo điều cùng một chữ T đứng đầu cả, tức là Tê- ô-cuyp. Đối với hạng này chỉ có Tê-ô-cuyp là một linh đan tuyệt nghiệm để muốn bắt họ phê sách thì phê!”

Nhưng người tuỳ phái của Tua Rua nghe lỏm được cuộc đối thoại này, lại nghe không ra mấy chữ Tê-ô-cuyp nên kêu ầm lên là mấy văn sĩ định đánh “Thuốc Tê Ô Cấp” để hại chủ mình, nên tự cho mình là “thuốc Giải tê Bà Rịa” để cứu chủ, rồi giằng bản thảo của Mai Hương chạy mất.

Tội ăn cắp (kịch vui, viết năm 1955) viết về một chuyện xảy ra trong gia đình thầy Cầu.Thầy đang ngồi viết thì cô Tú Anh (vợ thầy) đuổi đánh vú Ba, hai người chạy vào phòng viết của thầy. Cô vừa đuổi vừa chửi làm vú Ba không kịp thanh minh. Và cô còn một mực đòi chồng đuổi vú Ba ra khỏi nhà. Ông chồng hạ lệnh đuổi ngay dù chưa rõ lý do, làm cho người vú em phải lủi thủi vào thu xếp quần áo để chuẩn bị ra đi. Lúc đó, cô chủ Tú Anh mới nói rõ với thầy Cầu là vú Ba mắc tội ăn cắp mật ong chuyên dùng để đắp mặt của cô. Người vú thanh minh lại là vì em bé đòi ăn mật ong nên vú lấy cho em ăn. Vừa lúc đó, có người mang đến cho cô chủ chai thuốc đắp mặt mới. Thầy Cầu không đuổi người vú em nữa.

Trên đây là 6 kịch bản mà chúng tôi sưu tầm được. Theo gia đình Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cho biết, ông còn có hai kịch bản: Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi), nhưng hiện chưa tìm thấy). Với 6 kịch bản trên, ở phương diện loại hình xung đột, có thể chia làm 2 loại : hài kịch có 4 vở (Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp), bi kịch có 2 vở (Tây Thi Văn Chủng).


2.2. Một số đặc điểm về nội dung tư tưởng của kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.

2.2.1. Sự trân trọng giữ gìn các giá trị truyền thống của dân, thái độ

phê phán quyết liệt đối với một bộ phận trí thức Tây học dị hợm, vong bản.

Trong các khuynh hướng phát triển của văn học đầu thế kỷ XX, nổi lên khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn là những tác phẩm đầu tiên khơi dòng khuynh hướng này. Khi kịch nói phát triển, khuynh hướng phê phán xã hội cũng từng bước hình thành và phát triển song hành với các khuynh hướng khác. Các nhà viết kịch đã đưa lên sân khấu những tình cảnh lam lũ, lụt lội, đói kém, lưu vong nơi đất khách quê người của người nông dân, cùng những cảnh xa hoa, phè phỡn của đám quan lại, thượng lưu, sự lố bịch của tấng lớp tư sản, thị dân mới, sự ngu dốt, khôi hài của những dân biểu bù nhìn ...trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Những vở kịch mở đầu cho khuynh hướng này là: Một nhà bị lụt, (không rõ tác giả), Nghị Ngốc của Trương Ái Chủng, Toà án âm phủ, Một người thừa, Bạn và vợ… của Nguyễn Hữu Kim, Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Tình hối của Nguyễn Từ Sơn, Toa toa, moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước của Trung Tín, Chàng Ngốc Ông Tây An Nam của Nam Xương…

Với Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, và sau này là vở kịch vui Tội ăn cắp, Nam Xương đều chọn bối cảnh là các gia đình thành thị. Một điều đáng chú ý là các nhà viết kịch ở thời kỳ đầu của kịch nói Việt Nam (giai đoạn 1920 - 1930), phần lớn đều dựng kịch từ đề tài gia đình, bởi họ thấy được những biến động lớn của xã hội, những xung đột giữa các giá trị truyền thống và hiện đại đều tác động và phá vỡ các quan hệ giữa người với người ngay từ đơn vị nhỏ nhất của nó là gia đình. Thêm nữa, với người Việt, gia đình là một trọng ba thành tố của kết cấu Nhà – Làng - Nước làm nên một cộng đồng dân tộc bền vững trải qua hàng nghìn năm tồn tại; sự tác động lên nó, phá vỡ nó


tức là phá vỡ các quan hệ xã hội bền vững nhất, là nguyên nhân khiến cho xã hội bị khuynh đảo. Sự phá vỡ ấy diễn ra trước hết và tập trung ở khu vực đô thị, nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của quá trình biến đổi xã hội về mọi mặt.

Với các vở kịch này, soi chiếu ở góc nhìn hiện thực, ta bắt gặp những tình cảnh, những nhân vật rất tiêu biểu làm nên một phần diện mạo của xã hội đương thời. Đó là một xã hội đa dạng về các hình thức sinh hoạt: sinh hoạt gia đình với những nề nếp gia phong chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến, xen lẫn với những kiểu sinh hoạt xã hội đang được hiện đại hoá theo xu hướng dân chủ (hội họp, tổ chức ca nhạc, bán vé làm từ thiện…); đa dạng về các loại hình nghề nghiệp, kéo theo sự đa dạng về thành phần nhân vật: tầng lớp thị dân (Sỉn ông, Sỉn bà, Cưu ông, Cưu bà), thanh niên, sinh viên (cô Cỏn, Tình sinh, Kim Ninh), trí thức cũ (cụ Huấn), trí thức mới (cử Lân, tham Tứ, Đại phong tiên sinh), cậu ấm ở nông thôn (Ngốc sinh), bà mối “kinh doanh hôn nhân” (bà Tư Sùng), người làm thuê (Khiếu, Bộc)…Sự đa dạng về các hình thức sinh hoạt và loại hình nghề nghiệp làm nên sự phức tạp của các mối quan hệ xã hội bộc lộ trong không gian gia đình. Trong Chàng Ngốc, đó là gia đình Sỉn ông, với một ông chủ keo kiệt bủn xỉn, tham tiền, muốn bằng mọi cách để thu lợi, bất chấp cả hạnh phúc và tương lai con cái; một bà chủ quê mùa chất phác, thương con nhưng bất lực như bất cứ người mẹ nào trong các gia đình theo lễ giáo phong kiến; một cô con gái tân thời biết đấu tranh cho tình yêu chân chính. Trong Ông Tây An Nam, đó là gia đình Cưu ông, với một người con Tây hoá, nhất quyết chối bỏ nguồn gốc của mình, một người cha ham danh giá. Trong Tội ăn cắp, đó là một gia đình trí thức bình dân, nhưng người vợ theo đòi việc chăm lo sắc đẹp đến mức khinh rẻ và xúc phạm người đầy tớ chỉ vì chuyện cỏn con, người chồng có học nhưng nhu nhược…Cùng những nhân vật khác, mỗi nhân vật có một mục đích khác nhau - cao cả hoặc thấp hèn - và các hành động thực hiện mục đích của mình.


Từ những không gian gia đình với những mối quan hệ xã hội phức tạp ấy, Nam Xương đã nhìn ra sự mâu thuẫn đến mức xung đột giữa các hệ giá trị, nhìn ra những kiểu người khác nhau, và xã hội Việt Nam đương thời hiện lên khá rõ nét với sự phức tạp của nó. Một xã hội mà các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống lâu đời đang bị thách thức và mai một bởi những giá trị từ phương Tây ồ ạt đổ vào, làm cho suy thoái. Theo cách nói của người đương thời, đó là thời mà “phong hoá suy đồi, luân thường đảo ngược”. Hình ảnh của xã hội đương thời biểu hiện trong thế giới nhân vật của Nam Xương được chia thành 2 tuyến mang tính cách văn hoá xung đột với nhau. Một bên là những người hoặc vẫn nguyên vẹn cốt cách người Việt hoặc thức thời nhưng vẫn giữ nề nếp văn hoá Việt, đó là: cô Cỏn, Sỉn bà (Chàng Ngốc) Kim Ninh, tham Tứ, cụ Huấn, Cưu bà (Ông Tây An Nam). Một bên là những người thực dụng, tham tiền bạc của như Sỉn ông, (Chàng Ngốc), hoặc ham danh giá, học đòi chạy theo văn minh ngoại lai như Cưu ông, cử Lân, Khiếu (Ông Tây An Nam), cô Tú Anh (Tội ăn cắp); hoặc lưu manh, đạo đức giả như Đại Phong, Tư Sùng (Chàng Ngốc).

Ở tuyến thứ nhất có các nhân vật ở những giai tầng khác nhau, cụ thể là: cô Cỏn, Tình sinh, Kim Ninh, tham Tứ là những thanh niên đã học qua trường lớp của Pháp, thông thạo ngôn ngữ và văn hoá Pháp; cụ Huấn thuộc tầng lớp nho học, nhưng thích nghi với thời cuộc. Sỉn bà, Cưu bà thuộc tầng lớp bình dân, chất phác, thuần Việt. Nhưng tất cả đều có chung một tư tưởng: coi trọng văn hoá, đạo lý truyền thống. Tư tưởng ấy bộc lộ trong lời nói, hành động kịch của họ.

Kim Ninh là con gái Cưu ông – Cưu bà, được ăn học theo trường Tây, thuộc lớp phụ nữ mới lúc bấy giờ, ăn mặc tân thời, chơi quần vợt. Nhìn bề ngoài thì cô cũng như các thanh niên cùng thời khác, dễ bị xem là chạy theo xu hướng vọng ngoại. Nhưng Kim Ninh là hình ảnh đẹp của một lớp phụ nữ đương thời, càng có tri thức càng biết trân trọng truyền thống dân tộc. Biết nói


tiếng Pháp, khiến cho cử Lân kinh ngạc, nhưng trong cả vở kịch, cô chỉ nói một câu tiếng Pháp đầy kiêu hãnh: “Oui, Monsieur, je suis Annamite” (Vâng, thưa ông, tôi là người An nam!). Cô là người duy nhất buộc cử Lân phải nói tiếng Việt, cho dù y nhất mực từ chối xuất xứ Việt của mình trước cả cha mẹ mình, buộc cử Lân phải nói ra lý do vì sao y “Tây hoá”. Và mặc dù được cử Lân yêu say đắm, gia đình vun vào, nhưng bằng lý lẽ của mình, cô làm cho cử Lân phải nói ra quan niệm luyến ái đi ngược lại truyền thống đạo lý dân tộc, khiến cho hai bên gia đình không thể ép buộc được hôn nhân của cô, đồng thời bảo vệ được tình yêu của mình với tham Tứ.

Cũng như Kim Ninh, cô Cỏn là cô gái tân thời, được học hành, biết ăn mặc hợp thời trang, và cũng rất ý thức về quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng nam nữ. Cô nói với mẹ mình “Đã đành là phận chữ tòng, nhưng theo chồng cũng phải mà thôi chứ cái gì cũng theo ư? Vả chăng đời bây giờ nam nữ bình quyền, đàn ông không thể giữ quyền độc đoán được. ”(cảnh 2 hồi 2 – Chàng Ngốc). Ý thức về quyền tự do cá nhân, cô quyết liệt đấu tranh để được yêu và lấy người mình yêu.

Một trí thức kiểu mới là tham Tứ, học trường Tây, làm công chức nhà nước, nhưng vẫn một lòng trân trọng truyền thống đạo lý văn hoá dân tộc. Biết cử Lân về nước, tham Tứ cùng cụ Huấn đến khuyên Cưu ông làm sao cho cử Lân trở thành người có ích cho dân cho nước. Tham Tứ nói với Cưu ông: “Con thì chỉ mong cho anh con ra làm quan ngay, nhưng làm quan mà không coi nghề quan như một nghề buôn bán. Dù khi ra có xuất vốn hàng nghìn mà lúc làm cha mẹ dân không nỡ thu của dân từng đồng xu đồng kẽm”, “cố công mà nắm đuôi mối lợi, nhưng nắm bao nhiêu nên hưởng lấy một mình, hay cho bớt đồng bào khó đói, chớ vô tình mà vét vàng hầu bao dân Việt đem đổ vào túi đẫy thằng Ngô”. (cảnh 1, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Vậy là ngay từ đầu vở, Nam Xương đã xây dựng nhân vật tham Tứ với tư tưởng vì dân vì nước, đối lập với cử Lân.


Cụ Huấn là hình ảnh trí thức nho học ở buổi giao thời, đã thích nghi với xã hội mới trên cơ sở sự gạn lọc những giá trị của nó, đồng thời kiên định tinh thần dân tộc. Cụ Huấn khuyên Cưu ông làm sao cho cử Lân “là người biết hấp thụ không khí văn minh bên Pháp, luyện đúc tài năng để về ứng dụng cho xã hội nước nhà, không phải là người hám theo đuôi mối lợi mà tiêu ma mất học thức mình đi”(cảnh 1, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Khi gặp cử Lân, thấy y huênh hoang, vong bản, cụ bất bình, chỉ cho cử Lân sự ngu dốt của y khiến y bẽ mặt.

Sỉn bà, Cưu bà là những nhân vật điển hình của những người phụ nữ thuần khiết. Sống bên cạnh những ông chồng ham danh lợi, trong một xã hội đang đảo lộn các giá trị, nhưng các bà vẫn giữ được những nét chân thực, chất phác của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, coi trọng lễ nghĩa gia phong.

Ở tuyến thứ hai, đối lập với tuyến thứ nhất, là tập hợp những nhân vật mà Nam Xương muốn đả kích, phê phán. Họ là hình ảnh tiêu biểu cho sự tha hoá, xa rời thuần phong mỹ tục cùng các giá trị truyền thống của dân tộc trong xã hội đương thời. Trước hết là nhân vật Cưu ông . Từ cách ăn mặc, đến lời nói, hành vi đều thể hiện sự phô trương, tôn sùng danh lợi. Cưu ông mặc đồ ta nhưng rất sang, ở trong một ngôi nhà có đồ đạc cổ nhưng bầy biện theo lối nhà quan, có đủ cả hoành phi, câu đối, đôn, lo, tủ chè, sập gụ, ảnh phóng đại đeo bài ngà, hòm bằng sắc…Ngay ở câu thoại thứ hai đã khẳng định là “chỉ nay mai là tôi lo cho cháu ra Tri phủ”. Mặc cho cụ Huấn và Tham Tứ khuyên răn, Cưu ông vẫn chăm chăm ý định ấy, lại còn tỏ ra khinh miệt những người đã khuyên mình. Y nói: “Thôi tôi van các tiên sinh hãy mang cái cao thượng mà cút đi, nó nói hoắc cái tai này lắm. Cụ Huấn có muốn không gả con gái cho tôi nữa thì đừng, nó ra làm quan thiếu giống. Ông Tham tiên sinh có không chịu làm bạn với con tôi nữa tôi cũng càng may! Nhà tôi từ nay chả thiếu gì khách, mà khách tri phủ, tri huyện chứ khổ như tiên sinh ấy chăng?”(cảnh 2, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Mặc dù nhận ra thằng con đã trở nên bất hiếu, vong bản, nhưng vì ham muốn danh lợi nên Cưu ông vẫn cố níu


kéo y, dự định mua cho y chức tri phủ để tiến thân trên con đường công danh, gia đình dòng họ cũng nhờ thế mà vẻ vang.

Khiếu là đầy tớ của cử Lân, nhờ theo cử Lân sang Pháp, học được tiếng Pháp “bồi”, vì cử Lân không chịu nói tiếng An nam nên y trở thành “thông dịch bất dắc dĩ”, được Cưu ông Cưu bà gọi là “thầy thông”. Nếu như cử Lân nói tiếng Pháp chuẩn vì lý do mình đã “Tây hoá” hoàn toàn, thì Khiếu từ đầu chí cuối chỉ nói rặt một loại tiếng Tây bồi rất tức cười. Nhưng y thường xuyên lên giọng giảng giải cho người nhà cử Lân về văn minh, về đạo lý của Tây, lại lươn lẹo, hay cãi cho cử Lân. Khiếu là cái đuôi của cử Lân, nhất cử nhất động theo thầy, tung hô, tán dương lời nói, hành vi của Lân, có lúc bị Lân chửi mắng xúc phạm đã vùng vằng phản ứng, nhưng rồi vẫn cúc cung phục vụ, bởi vì Lân hứa cho thêm tiền. Khiếu là nhân vật phụ nhưng khá ấn tượng, làm rõ thêm hình ảnh của “Ông Tây An Nam” cử Lân.

Bên cạnh Cưu ông nửa tây nửa ta, ham danh giá, Nam Xương còn xây dựng một Sỉn ông (trong Chàng Ngốc) cổ hủ, tham tiền một cách vô lối, một Sỉn ông cứ mở miệng là nói đến tiền. Dường như tiền là lẽ sống, là mục đích tồn tại của ông ta. Sỉn ông vì muốn có nhiều tiền mà bất chấp cả tương lai, hạnh phúc của cô con gái độc nhất của mình. Sỉn ông cũng là một người độc đoán gia trưởng. Bản chất của Sỉn ông bộc lộ trong câu nói gắt khi Sỉn bà phản đối chuyện mối lái cho cô gái mình lấy Ngốc sinh: “Việc ở tôi hết, không phải tại người ta. Bà cứ dả dông đến người ta thì tôi gọi văng Ngốc sinh đến chồng tiền gắn phắt ngay con gái, thế là chẳng cần mối lái cưới xin gì cả.” (cảnh 3, hồi 1 – Chàng Ngốc)

Nam Xương đã thể hiện sự tinh tế của mình khi quan sát và chỉ ra những kiểu người như là sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đặc biệt là ông đã rất tinh tường khi nhìn ra những kiểu “dị dạng” (như Ngốc sinh, Đại Phong, Tư Sùng) đang tồn tại trong thời buổi “hỗn canh hỗn cư”. Ngốc sinh là kẻ ngốc, lại ít học, được Tư Sùng - một bà mối xảo trá, trục lợi, và Đại Phong

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/04/2022