Bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên thực hành các trường dạy nghề khu vực miền núi phía Bắc - 3

11


bị các nguồn học liệu cần thiết cho dạy và học; soạn được các công cụ kiểm tra, biết cách đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh.

Các nghiên cứu nêu trên đã tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy nghề nhằm chuẩn hóa GVDN theo yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó đa phần đều ở dạng nghiên cứu vĩ mô, khái quát, mang tính tổng thể chưa đi sâu để giải quyết các yêu cầu cụ thể, cấp thiết mà các cơ sở đào tạo nghề cần cho việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên của các trường dạy nghề có tính đặc thù trong một khu vực hoặc của một địa phương. Các văn bản của nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mang tính chỉ đạo về mặt chủ trương, đường lối, định hướng cho các cơ sở đào tạo nghiên cứu, triển khai thực hiện; các chương trình bồi dưỡng được ban hành mang tính bao quát, chung cho mọi giáo viên, chưa chỉ ra những việc làm cụ thể, giải pháp cụ thể trong công tác bồi dưỡng đội ngũ của các cơ sở dạy nghề.

Đề tài “Bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên thực hành các trường dạy nghề khu vực miền núi phía Bắc” tiếp thu kết quả nghiên cứu các nhà khoa học trong và ngoài nước, kết hợp với việc điều tra, khảo sát thực trạng năng lực dạy học của GVTH các trường dạy nghề 6 tỉnh miền núi phía Bắc nhằm giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc bồi dưỡng NLDH cho GVTH nhằm chuẩn hóa đội ngũ GVTH, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các trường dạy nghề khu vực miền núi phía Bắc, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao để phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương, của khu vực và trong cả nước.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Giáo viên dạy nghề

GVDN là những người giảng dạy các môn kỹ thuật cơ sở, môn lý thuyết nghề và thực hành nghề. GVDN có chức năng đào tạo nhân lực có kỹ thuật trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội [19].

GVDN có 3 loại: Giáo viên lý thuyết (chỉ giảng dạy các môn kỹ thuật cơ sở, lý thuyết nghề); GVTH (chỉ giảng dạy các môn học/môđun thực hành nghề); giáo viên lý thuyết và thực hành (giảng dạy cả lý thuyết nghề và thực hành nghề).

Theo chức danh, GVDN trong các cơ sở đào tạo nghề được gọi là “giáo viên, giảng viên dạy nghề”. Giáo viên dạy trình độ sơ cấp nghề gọi là giáo viên sơ cấp nghề; giáo viên dạy trình độ trung cấp nghề gọi là giáo viên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

12


Bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên thực hành các trường dạy nghề khu vực miền núi phía Bắc - 3

trung cấp nghề; giáo viên dạy trình độ cao đẳng nghề gọi là giáo viên, giảng viên cao đẳng nghề [59].

1.2.1.1. Nhân cách GVDN

Người GVDN cùng một lúc đồng thời thể hiện nhiều vai trò, trách nhiệm khác nhau trong xã hội. Do vậy phẩm chất và năng lực của người GVDN phải thể hiện được các vai trò đó. Hiện có nhiều quan điểm về xây dựng mô hình nhân cách người GVDN. Theo quan điểm giáo dục học, tác giả Nguyễn Đức Trí [61] đề xuất mô hình nhân cách người GVDN (hình 1. 1) bao gồm các yếu tố sau:

- Về phẩm chất: Phẩm chất người công dân Việt Nam; phẩm chất của nhà sư phạm (nhà giáo dục); phẩm chất của nhà chuyên môn kỹ thuật (nhà khoa học).

- Về năng lực: Năng lực chuyên môn; năng lực sư phạm.


Phẩm chất nhà sư phạm:

- Yêu người, yêu nghề.

- Mẫu mực, trung thực, khiêm tốn.

- Độ lượng, vị tha, tâm lý.

....

Phẩm chất người công dân:

- Tình yêu tổ quốc, yêu nhân dân.

- Ý thức chấp hành pháp luật.

- Mối quan hệ xã gia đình, xã hội.

...

PHẨM CHẤT



Phẩm chất nhà chuyên môn kỹ thuật:

- Tác phong công nghiệp.

- Năng động, sáng tạo, nhạy bén.

- Chính xác, rõ ràng, cụ thể

...

Năng lực chuyên môn kỹ thuật:

- Nắm vững kiến thức chuyên môn.

- Năng lực thực hành.

- Năng lực tổ chức, quản lý sản xuất.

...

MÔ HÌNH NHÂN CÁCH GVDN


Năng lực sư phạm:

- Năng lực dạy học (truyền đạt kiến thức).

- Năng lực giáo dục.

- Năng lực tổ chức qúa trình dạy và học.

...

NĂNG LỰC



Hình 1.1. Mô hình nhân cách GVDN

13


Cụ thể là:

- Về phẩm chất: Người GVDN phải là một người công dân gương mẫu (yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật; tích cực tham gia các hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội...); GVDN cần phải thể hiện tính sư phạm, tính mô phạm của một nhà giáo dục (có lòng yêu nghề, yêu người; ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, tâm huyết với nghề; mẫu mực trong truyền thụ kỹ năng nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp cho các thế hệ học sinh...); GVDN được đào tạo chuyên ngành (cử nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên...) cần phải có phẩm chất của một nhà chuyên môn kỹ thuật (tác phong công nghiệp; tính kế hoạch trong công việc; tính nhạy bén, năng động, sáng tạo...).

- Về năng lực: Người GVDN phải là một nhà chuyên môn giỏi, một chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn được đào tạo (có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp; có năng lực thực hành; có khả năng tư duy, sáng tạo...) và nắm được kiến thức cơ bản của một số chuyên môn khác, chuyên ngành khác có liên quan đến nghề nghiệp; GVDN cần phải có năng lực sư phạm nói chung và năng lực sư phạm dạy nghề nói riêng (có năng lực dạy học: khả năng chuẩn bị bài giảng, khả năng truyền đạt kiến thức, thu hút người nghe, khả năng xử lý tình huống; có năng lực sáng tạo; có năng lực điều hành, tổ chức và quản lý quá trình dạy nghề...).

1.2.1.2. Vai trò, nhiệm vụ của GVDN

- Vai trò của GVDN trong xã hội [2]: Từ xưa đến nay, người thầy luôn giữ vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển của mỗi học trò nói riêng và từ đó ảnh hưởng tới sự phát triển của cả xã hội nói chung. Nhu cầu học tập là chung cho tất cả mọi người, người thầy là người trực tiếp thúc đẩy quá trình học tập phát triển. Dân gian có câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chính là nói đến vấn đề cần phải học và lẽ tất nhiên học phải gắn liền với dạy của người thầy. Vai trò của người thầy đã được xã hội ghi nhận bằng câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên!”. Điều này càng thể hiện rõ khi khoa học kỹ thuật phát triển, các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ngày càng phức tạp, người học khó có thể tự nắm bắt được mà đòi hỏi cần có người định hướng, chỉ dẫn. Vai trò của người thầy chính là ở đó. Nhờ có người giáo viên mà kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại ở mọi lĩnh vực được lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau và được tinh lọc ngày càng hoàn thiện. GVDN không chỉ dạy nghề mà nhiệm vụ lớn hơn là dạy người, là hình thành phẩm chất đạo đức của người lao động mới ở người học phù hợp với chuẩn mực xã hội.

14


- Vai trò của GVDN đối với chất lượng đào tạo: “Người thầy là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục” [27]. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, muốn đánh giá chất lượng đào tạo nghề của một cơ sở đào tạo, trước hết phải nhìn vào đội ngũ giáo viên. Nếu đội ngũ giáo viên được đào tạo chính quy, có năng lực thực sự thì đó chính là điều cốt yếu, cơ bản để có thể đảm bảo chất lượng đào tạo.

- Nhiệm vụ truyền thụ kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho học sinh [60]: Nhiệm vụ chính của GVDN là truyền thụ kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho học sinh thông qua quá trình dạy học và nội dung dạy học được thể hiện trong chương trình đào tạo của mỗi nghề, bao gồm: Khối kiến thức kỹ thuật cơ sở, khối kiến thức chuyên môn, kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp là các thao tác cơ bản để thực hiện các công việc của nghề. Mỗi nghề đều có các kỹ năng, kỹ xảo riêng biệt, nắm bắt được kỹ năng, kỹ xảo là nắm bắt được nghề.

- Nhiệm vụ giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho học sinh [46], [47]: Quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước là thực hiện giáo dục toàn diện. Nhà trường phải đào tạo ra những người vừa “hồng” vừa“chuyên”. Giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh chính là giáo dục lòng yêu nghề, thái độ trân trọng đối với nghề nghiệp đã lựa chọn vì đó là động lực để học sinh học tập, phấn đấu cho nghề nghiệp, vì nghề nghiệp. Giáo dục phẩm chất đạo đức của người lao động mới còn là giáo dục tính khoa học, tính kỷ luật, tính kế hoạch và tác phong công nghiệp trong công việc.

- Nhiệm vụ phát triển trí tuệ cho học sinh [31]: Ngoài nhiệm vụ dạy học và giáo dục nêu trên, để phát triển trí tuệ của học sinh, người giáo viên cần quan tâm đến việc bồi dưỡng khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh. Năng lực hoạt động trí tuệ thể hiện ở năng lực vận dụng các thao tác trí tuệ, đặc biệt là các thao tác tư duy. Người giáo viên phải biết phát triển năng lực trí tuệ của học sinh trong quá trình dạy học. Người thầy giỏi là người biết dạy học sinh phương pháp học để học sinh có thể tự học tập, tự nghiên cứu.

1.2.2. Giáo viên thực hành

GVTH là những người chuyên giảng dạy các môn học/môđun thực hành nghề, giúp học sinh có được kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất nghề nghiệp. Trong luận án, khái niệm GVTH được sử dụng cho hai loại giáo viên là GVTH, giáo viên lý thuyết và thực hành (vận dụng trong bồi dưỡng phần dạy thực hành cho giáo viên lý thuyết và thực hành).

15


- Vai trò của GVTH: Yếu tố cơ bản trong nhân cách học sinh học nghề là năng lực và phẩm chất nghề nghiệp. Nhân cách học sinh học nghề được hình thành và phát triển trong quá trình học tập. Giáo viên là người đóng vai trò quyết định đến sự phát triển toàn diện về nhân cách của người học. Xét đơn thuần về phương diện phát triển năng lực, đặc biệt là các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp thì người GVTH đóng vai trò quan trọng vì khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ngày càng tinh vi, phức tạp, đòi hỏi sự chính xác cao mà tự mỗi học sinh không thể thực hiện được, không thể làm đúng nếu như không có sự truyền đạt, hướng dẫn của giáo viên. Nhờ có sự truyền đạt, hướng dẫn của giáo viên mà học sinh nắm bắt dễ ràng hơn các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Việc thực hiện bài giảng thực hành hoàn toàn khác biệt với bài giảng lý thuyết, hoạt động chính của giáo viên là hướng dẫn các thao tác, thao tác của giáo viên là chuẩn mực cho học sinh làm theo.

- Nhiệm vụ chính của GVTH: GVTH có nhiệm vụ hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho học sinh. Trong hoạt động dạy học (dạy nghề) người GVTH có các nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Soạn giáo án thực hành.

+ Viết hướng dẫn quy trình thực hành.

+ Lập phiếu thực tập.

+ Chuẩn bị vật tư, dụng cụ, thiết bị, phương tiện dạy học.

+ Bố trí thiết bị, phương tiện thực hành trong xưởng thực tập.

+ Thực hiện hướng dẫn ban đầu.

+ Tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động thực hành (hướng dẫn thường xuyên).

+ Xử lý các tình huống sư phạm nảy sinh.

+ Nhận xét và đánh giá kết quả bài thực hành (hướng dẫn kết thúc).

Thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên, người GVTH sẽ từng bước đảm bảo việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho học sinh trong quá trình học tập.

1.2.3. Dạy học

Dạy học là hoạt động đặc thù của xã hội loài người, trong đó thế hệ trước truyền đạt lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm lịch sử xã hội nhằm tái tạo lại ở thế hệ sau những năng lực thích ứng và năng lực sáng tạo trước sự phát triển của xã hội [60].

16


Dạy học được hiểu là một hình thức đặc biệt của giáo dục. Dạy học là con đường quan trọng trong mối quan hệ biện chứng và phối hợp với các con đường, các hoạt động khác trong quá trình giáo dục để thực hiện mục đích và nhiệm vụ giáo dục.

Dạy học bao hàm hoạt động dạy của giáo viên (người dạy) và hoạt động học của học sinh (người học). Hoạt động dạy và hoạt động học luôn gắn bó với nhau, thống nhất biện chứng với nhau.

Hoạt động dạy (chủ thể là giáo viên - người dạy) giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học. Giáo viên xây dựng và thực thi kế hoạch dạy học, tổ chức cho học sinh thực hiện hoạt động học tập với các hình thức khác nhau, trong từng thời gian và không gian khác nhau. Hoạt động dạy không chỉ là truyền đạt kiến thức mà quan trọng và cần thiết hơn là thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, tư duy sáng tạo của học sinh.

Hoạt động học (chủ thể là học sinh - người học) giữ vai trò chủ động, tự giác, tích cực, tự điều khiển hoạt động học tập nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân để hình thành, phát triển nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội trong quá trình dạy học.

1.2.4. Năng lực

Có nhiều khái niệm về năng lực, đó là:

- Năng lực con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội. “Sự hình thành

năng lực đòi hỏi cá thể phải nắm được các hình thức hoạt động mà loài người đã tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử xã hội. Vì vậy, năng lực con người không những do hoạt động của bộ não quyết định mà trước hết do trình độ phát triển lịch sử mà loài người đạt được” [40].

- Năng lực là “Tổng hợp các thuộc tính độc đáo của nhân cách phù hợp với yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả” [40].

- Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” hoặc là “Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người có khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao” [27].

- Năng lực là “Tập hợp các tính chất hay phẩm chất tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định. Người có năng lực là người đạt hiệu suất và chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau” [25].

17


Điểm chung trong các khái niệm trên: Năng lực là khả năng hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, gắn với một loại hoạt động cụ thể nào đó. Năng lực là một yếu tố của nhân cách nên mang dấu ấn cá nhân, thể hiện tính chủ quan trong hành động và được hình thành theo quy luật hình thành và phát triển nhân cách, trong đó giáo dục, hoạt động và giao lưu có vai trò quyết định. Mặt khác, về bản chất, năng lực được tạo nên bởi các thành tố: Kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, các yếu tố này không tồn tại riêng lẻ mà chúng hòa quyện, đan xen vào nhau. Do vậy, năng lực ở mỗi con người có được nhờ vào sự bền bỉ, kiên trì học tập, ôn luyện, rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn.

Năng lực có 3 cấp độ khác nhau:

- Năng lực bình thường: Là mức khởi đầu, có ở mỗi con người bình thường khi sinh ra và được phát triển, hoàn thiện qua quá trình học tập, lao động, hoạt động xã hội.

- Tài năng: Là mức độ cao của năng lực, thể hiện sự sáng tạo, nhạy bén trong suy nghĩ, trong hành động của con người.

- Thiên tài: Là mức độ rất cao của năng lực, có tính độc đáo và nét riêng biệt. Tài năng của con người mang tính bẩm sinh (hoặc do đột biến).

Năng lực được chia làm 2 loại:

- Năng lực chung: Là năng lực có ở mọi người bình thường. Người lành mạnh nào cũng đều có năng lực chung ở các mức độ khác nhau. Đó chính là trí tuệ của con người. Năng lực chung là cơ sở cho sự phát triển năng lực chuyên biệt. Trong giáo dục, phát triển và hoàn thiện năng lực chung là nhiệm vụ của giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.

- Năng lực chuyên biệt: Là năng lực thể hiện sự riêng biệt có tính chuyên môn nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động chuyên môn đạt hiệu quả.

1.2.5. Năng lực sư phạm

Năng lực sư phạm thuộc loại năng lực chuyên biệt, đặc trưng cho nghề dạy học.

Theo quan điểm của tác giả Phạm Minh Hạc thì “Năng lực sư phạm là tổ hợp những đặc tính tâm lý của nhân cách nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và quyết định sự thành công của hoạt động ấy” và “Năng lực sư phạm tựa như là hình chiếu của hoạt động sư phạm” [24].

18


Như vậy, năng lực sư phạm là một thành tố tạo nên nhân cách của người giáo viên.

Năng lực sư phạm có cấu trúc gồm: Năng lực dạy học, năng lực giáo dục và năng lực tổ chức [44].

1.2.5.1. Năng lực dạy học

Năng lực dạy học là một thành tố quan trọng của năng lực sư phạm, năng lực dạy học gồm các năng lực thành phần: Năng lực chuẩn bị, năng lực thực hiện và năng lực đánh giá.

- Năng lực chuẩn bị gồm các thao tác: chọn lựa tài liệu tham khảo để chuẩn bị cho hoạt động giảng dạy, xác định mục tiêu bài giảng; các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng dạy học; chọn các phương pháp, hình thức giảng dạy và kỹ thuật giảng dạy cũng như thiết bị tương ứng; dự kiến các phương án xảy ra và phương án xử lý.

- Năng lực thực hiện được thể hiện trong quá trình thực hành giảng dạy và giáo dục, gồm các kỹ năng: ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, định hướng nội dung mới, luyện tập kỹ năng, phát triển kiến thức, kiểm tra đánh giá học sinh... Trong quá trình thể hiện năng lực thực hiện, có 3 yếu tố cần quan tâm: Năng lực sử dụng ngôn ngữ; năng lực sử dụng các thiết bị và phương tiện giảng dạy; năng lực hoạt động xã hội trong và ngoài trường.

- Năng lực đánh giá giúp cho giáo viên nắm được trình độ và khả năng tiếp thu bài của học sinh để xác nhận kết quả của một hoạt động và để bổ sung, điều chỉnh trong dạy học.

1.2.5.2. Năng lực giáo dục

Năng lực giáo dục giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho học sinh. Năng lực giáo dục gồm các năng lực thành phần: Năng lực thiết kế mục tiêu, kế hoạch các hoạt động giáo dục; năng lực cảm hóa, thuyết phục học sinh; năng lực hiểu biết đặc điểm học sinh; năng lực phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường.

1.2.5.3. Năng lực tổ chức

Năng lực tổ chức giúp giáo viên hoàn thành nhiệm vụ dạy học và giáo dục. Năng lực tổ chức gồm các năng lực thành phần: Năng lực phối hợp các hoạt động dạy học và giáo dục giữa thầy và trò, giữa các học trò với nhau, giữa các giáo viên với giáo viên; năng lực nắm vững các bước tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục; năng lực phối hợp nguồn lực (học

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 09/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí