Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào Cai tỉnh Lào Cai - 2

và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì QL là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì QL là một khoa học".

Trong báo cáo (1996) với nhan đề “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn” của UNESCO đã xem xét vấn đề GD suốt đời như là việc học tập dựa trên bốn

trụ

cột lớn: “Học để

biết; Học để

làm; Học để

cùng chung sống; Học để

cùng tồn tại”. Đây chính là định hướng cốt lõi cho GD học sinh trong các trường THPT. Vấn đề GD để làm gì? GD cái gì? và GD như thế nào?.

Trong tác phẩm “Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp” (NXB Giáo

dục Matxcơva,1984), Bôn ­ đư ­ rép N.I. đã trình bày những phương pháp cơ bản về cách thức thực hiện công tác chủ nhiệm lớp ở các trường PT.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.

Từ định hướng trên, các nước phát triển đã chỉ ra những nội dung GD

cho HS trung học mà có liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp. Những nội

Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào Cai tỉnh Lào Cai - 2

dung GD học sinh như: GD kĩ năng sống, GD những giá trị sống, GD hướng nghiệp… Theo quan điểm của UNESCO đã cho rằng GD trung học là giai đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình những giá trị cần thiết cho cuộc sống cũng như con đường chuẩn bị bước vào hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống

sau này. Đặc biệt, cuốn tài liệu tập huấn kĩ năng cơ bản trong tham vấn

(Unicef 2005) cũng đưa ra những cách thức tham vấn cho HS lứa tuổi thanh niên. Như vậy, người GV cần tổ chức các họat động khác nhau để HS có thể tham gia được dễ dàng và học được rất nhiều thứ từ đó.

Ở Việt Nam, nhiều tác giả cũng đã quan tâm nghiên cứu vấn đề quản lý và quản lý trong GD. Các tác giả cũng đưa ra những quan niệm của mình: "Quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu" (PGS.TS Trần Quốc Thành); hay "Quản lý là một quá

trình định hướng, QL một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất

định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà

người QL mong muốn" (TS Đặng Vũ Hoạt). Nhìn chung các quan niệm về

QL đều nhấn mạnh đến hoạt động nhằm hướng vào đạt mục tiêu đã hoạch định.

Nghiên cứu về

công tác chủ

nhiệm lớp được tác giả

Nguyễn Thanh

Bình quan tâm sâu sắc với các công trình: “Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT”, đề tài mã số SPHN­09­465NCSP, 2010, cũng như cuốn “Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay” (NXB Đại học sư phạm, 2011). Ở đây các tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản của công tác chủ nhiệm lớp, những nội dung trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay từ góc nhìn của chuẩn nghề nghiệp GV trung học. Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung cũng thể hiện quan điểm của mình về nội dung quan trọng trong đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên sư phạm (kỉ

yếu hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng nghiệp vụ viên các trường Đại học sư phạm”, 2010).

sư phạm cho sinh

Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học cũng quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp với các công trình như: Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ, “Những tình huống giáo dục HS của người GVCN”, NXB ĐHQG Hà

Nội, 2000; Hà Nhật Thăng (chủ biên), “Phương pháp công tác của người

GVCN trường THPT”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001; Hà Nhật Thăng, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ, “Công tác GVCN ở trường phổ thông”, NXBGD, 1998; Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Kỷ yếu hội thảo Công tác GVCN ở trường phổ thông”, NXBGD, 2010.

Các tác giả còn đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh khác có liên

quan đến công tác chủ nhiệm như: Nguyễn Thanh Bình với tác phẩm “Giáo dục kĩ năng sống” (NXB Đại học sư phạm, HN 2007); Nguyễn Thị Kim Dung và cộng sự “Hướng dẫn tổ chức họat động giáo dục ngoài giờ lên lớp” (tài liệu dành cho lớp 11); Nguyễn Thị Kim Dung với đề tài “Rèn luyện kĩ năng

làm việc nhóm của học sinh tiểu học thông qua họat động giáo dục ngoài giờ lên lớp” (2006 ­2007), mã số: B 2006 ­ 17­ 01­ 2007.

Nghiên cứu về biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp có “Một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp trong các trường THPT tỉnh Bắc Ninh”, 2005, của Nguyễn Khắc Hiền.

Hiện vấn đề

này chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện

ở các

trường trung học phổ thông của tỉnh Lào Cai – đây cũng là vấn đề khá mới với một tỉnh miền núi, nơi có nhiều dân tộc cùng sinh sống.

1.2. Cơ sở lý luận về quản lý công tác chủ nhiệm lớp

1.2.1. Quản lý

1.2.1.1. Khái niệm quản lý

Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, con người muốn tồn

tại và phát triển cần phải có sự phối hợp với nhau trong một nhóm, một tổ

chức. Để tổ chức, điều khiển tạo nên sự phối hợp của nhóm người trong hoạt động theo yêu cầu nhất định, một loại hình lao động mới xuất hiện. Loại hình lao động đó là hoạt động QL.

Như vậy, QL là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. QL là một hoạt động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội và là nhân tố không thể thiếu được trong sự phát triển của xã hội. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của QL trong sự ổn định và phát triển của xã hội. QL là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử.

Theo Các Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động

chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến

một sự

chỉ

đạo để

điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những

chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều

khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[4]. Từ quan niệm trên, có nhiều định nghĩa khác nhau về QL, tùy theo góc độ xem xét của mình.

Như theo tác giả Frederich Wiliam Taylor (1856­1915) người Mỹ: “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”[10].

Trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực”, Paul Herscy và Ken Blanc Heard lại coi “QL là một quá trình cùng làm việc giữa nhà QL và người bị QL, nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức”[25].

Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt coi “QL là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, QL một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định”[23].

Tác giả Mai Hữu Khuê lại cho rằng “Hoạt động QL là một dạng hoạt động đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy QL, hình thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các khâu và các cấp QL, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu quả”[14]

Giáo trình “QL giáo dục và đào tạo” của trường Cán bộ QL GD&DT có

nêu:

­ QL là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ

thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội.

­ QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các

thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ hành của đối tượng ổn định và phát triển đến mục tiêu đã định.

cho sự

vận

­ QL là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể QL đến khách thể

QL

nhằm đạt các mục tiêu đề ra.

­ QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL là đối tượng

QL

và khách thể QL nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến đổi của môi trường [12].

Các định nghĩa trên tuy khác nhau nhưng có một số điểm chung trong

nhận thức về QL, trong đó coi: i) QL là hoạt động lao động để điều khiển lao động, hoạt động khác của nhóm hay tập thể; ii) Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động bởi trong QL, bao giờ cũng có chủ thể QL và đối tượng QL, quan hệ với nhau bằng những tác động QL. Những tác động QL chính là những quyết định QL, là những nội dung của chủ thể QL yêu cầu đối với đối tượng QL. Qua đó, cả chủ thể QL và đối tượng QL đều phát triển; iii) QL là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã hội. Lao

động QL là điều kiện tiên quyết làm cho xã hội loài người tồn tại và phát

triển; iv) QL là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác lập rằng QL phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường xác định. Trong cấu trúc đó, ba thành tố: Mục tiêu, chủ thể, khách thể quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hoạt động của bộ máy.

Hiện nay

QL được định nghĩa:

QL là những hoạt động có phối hợp

nhằm định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu. Như vậy, nội hàm của khái niệm QL gồm: i) Hoạt động phối hợp nhiều người, nhiều yếu tố; ii) Định hướng các hoạt động theo mục tiêu nhất định; iii) Kiểm soát được tiến trình của hoạt động trong quá trình tiến tới mục tiêu.

1.2.1.2. Chức năng quản lý

* Chức năng kế hoạch hoá

Peter Drucker, đã đề

xuất tiêu chuẩn về

tính hiệu nghiệm (khả

năng

làm những việc “đúng”) và tính hiệu quả

(khả

năng làm đúng việc). Theo

quan điểm của ông, tính hiệu nghiệm là quan trọng hơn, bởi vì vẫn có thể đạt được hiệu quả khi chọn sai mục tiêu. Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với

hai khía cạnh của kế hoạch, đó là xác định những mục tiêu “đúng” và lựa

chọn những biện pháp “đúng” để đạt các mục tiêu. Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình QL [26].

Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào kế hoạch, với mục đích, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và xác định rõ các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.

Nhiều nhà lý luận QL cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của mọi hoạt động, mọi chức năng QL khác. Họ ví kế hoạch như một chiếc đầu tầu kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, nếu không có kế hoạch thì người QL không biết phải tổ chức nhân lực và các nguồn nhân lực khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái gì nữa. Không có

kế hoạch, người QL không thể

chỉ

dẫn, lãnh đạo người thuộc quyền hành

động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết quả mong đợi. Và không có kế hoạch thì cũng không xác định được tổ chức hướng tới đúng hay

chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục tiêu và sự không có căn cứ.

kiểm tra sẽ

Kế hoạch hoá có vai trò quan trọng như vậy bởi bản thân nó có những chức năng cơ bản sau:

Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường, trong đó

có tính tới nhu cầu bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những hướng ưu tiên, dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.

Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.

Trong QL nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ các mục tiêu, nội dung hoạt động, biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi kết thúc các hoạt động.

* Chức năng tổ chức:

Bamard định nghĩa tổ

chức như

là “Hệ

thống các hoạt động hay tác

động có ý thức của hai hay nhiều người”. Cuốn “Cơ sở khoa học QL” đã xác

định: “Tổ

chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối

ưu của hệ

thống QL và phối hợp tốt nhất giữa các hệ (chấp hành)” [9].

thống lãnh đạo và bị

lãnh đạo

Xuất phát từ quan điểm trên, trong QLGD, quản lý trường trung học,

điều quan trọng nhất của công tác tổ chức là phải xác định rõ vai trò của mỗi bộ phận, cá nhân, bảo đảm các mối quan hệ ngược, sự thống nhất và đồng bộ về tổ chức trong QLGD ở trường trung học.

Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống QL trở nên có hiệu quả, cho phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện của QL. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ phận trong hệ thống QL. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả QL.

* Chức năng chỉ đạo:

Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể QL đến hành vi và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể QL và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần hiện thực hoá các mục tiêu đã đặt ra.

Chức năng chỉ đạo chính là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực của nhân tố con người trong hệ thống QL, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu thực hiện mục tiêu.

* Chức năng kiểm tra đánh giá

Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra đánh giá để xem xét việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.

Như vậy, kiểm tra đánh giá có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác QL như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đổi mới cơ chế QL, phương pháp QL nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả QL.

Tóm lại, sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động QL đã hình thành nên các chức QL, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chu trình QL.

1.2.1.3. Nội dung quản lý

Theo Từ điển Tiếng Việt, nội dung là mặt bên trong của sự vật được hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện.

Nội dung QL là các công việc, các hoạt động của nhà QL thực hiện phối hợp nhiều người, nhiều yếu tố, định hướng các hoạt động và kiểm soát tiến trình của hoạt động trong quá trình tiến tới mục tiêu của tổ chức.

Xem tất cả 182 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí