21
rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi số điểm và học bạ HS.
- GVCN lớp có trách nhiệm báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình của lớp với HT.
Tóm lại, trong các trường phổ thông GVCN lớp có vai trò đặc biệt quan trọng, là người quản lí, tổ chức, chỉ đạo và điều phối các hoạt động của một lớp học. Công tác của GVCN lớp bao gồm rất nhiều hoạt động, cần khai thác, phối hợp với các lực lượng để cùng giáo dục HS, thống nhất giữa các lực lượng giáo dục đó là nguyên tắc, đồng thời là con đường xã hội hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục theo mục tiêu chung. Thực tế đã khẳng định năng lực công tác, kinh nghiệm sư phạm và ý thức trách nhiệm của người GVCN lớp quyết định chất lượng học tập và tu dưỡng của HS trong một lớp học.
1.3.2. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực đối với giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT trong bối cảnh đổi mới giáo dục
Mỗi mục tiêu giáo dục của một giai đoạn nhất định sẽ đòi hỏi CBQL, GV của mỗi nhà trường phải đáp ứng được những yêu cầu của thời đại giai đoạn đó. Đặc biệt, vai trò của GVCN cần được khẳng định, nhằm giúp HS trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo.
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của GVCN
Phẩm chất chính trị: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia các hoạt động chính trị-xã hội; thực hiện nghĩa vụ công dân.
Đạo đức nghề nghiệp: Yêu nghề, gắn bó với nghề dạy học; chấp hành Luật giáo dục, điều lệ, qui chế, qui định của ngành; có ý thức tổ chức kỉ luật và tinh thần trách nhiệm; giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; sống trung thực, lành mạnh, là tấm gương tốt cho HS. Bên cạnh việc truyền đạt kiến thức cho HS, cùng với gia đình, GVCN còn có một trọng trách cao cả là “Dạy các em làm người”. Chính vì vậy, công tác chủ nhiệm là một công tác đòi hỏi người GV phải thực sự có lòng yêu
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp tại các trường trung học phổ thông thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lí Hoạt Động Bồi Dưỡng Đội Ngũ Gvcn Lớp Ở Trường Trung Học Phổ
- Quản Lí Hoạt Động Bồi Dưỡng Đội Ngũ Giáo Viên Chủ Nhiệm Lớp Khái Niệm Quản Lí
- Quản Lí Hoạt Động Bồi Dưỡng Đội Ngũ Giáo Viên Chủ Nhiệm Lớp Ở Trường Thpt
- Khái Quát Về Giáo Dục Trung Học Phổ Thông Của Thị Xã Bình Minh, Tỉnh Vĩnh Long
- Thực Trạng Hoạt Động Bồi Dưỡng Đội Ngũ Giáo Viên Chủ Nhiệm Lớp Tại Các Trường Thpt Thị Xã Bình Minh, Tỉnh Vĩnh Long
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
22
nghề và yêu người cùng với việc áp dụng các biện pháp thích hợp để có thể giáo dục thế hệ trẻ tương lai của đất nước trở thành những con người có tri thức, văn hóa, nhân cách và đạo đức tốt.
Ứng xử với HS: Thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với HS, giúp HS khắc phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt. GVCN cần gần gũi, thấu hiểu quan tâm đến từng HS trong lớp. Các thầy cô luôn quan tâm đến các em bằng tấm lòng nhân ái, bao dung như người cha, người mẹ. Cần nắm bắt thông tin cá nhân HS từ đầu năm học, thấu hiểu hoàn cảnh của từng HS trong lớp về những thuận lợi, khó khăn, chú ý quan tâm đến HS có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. GVCN cần gần gũi, tiếp xúc trò chuyện với các em nhiều hơn, tạo sự thân thiện, tin tưởng để các em bộc lộ tình cảm, giúp kịp thời ngăn chặn các sai lầm ở các em.
Ứng xử với đồng nghiệp: Đoàn kết, hợp tác, cộng tác với đồng nghiệp; có ý thức xây dựng tập thể tốt để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục. Một điều quan trọng nữa đó là, GVCN cần phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh HS, với BGH, GVBM và các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Bởi giáo dục HS không chỉ là công việc của GVCN, mà còn là trách nhiệm của gia đình và toàn xã hội. Việc hình thành nhân cách cho các em không thể thiếu vai trò của phụ huynh, vì ngoài những giờ lên lớp thì các em ở trong sự kiểm soát của gia đình và xã hội, Chính vì vậy, GVCN cần tạo mối quan hệ mật thiết với cha mẹ HS, kịp thời liên lạc với phụ huynh HS khi các em trốn giờ học, nghỉ học không lý do hoặc có những biểu hiện tiêu cực: không học bài, không làm bài tập, thiếu tập trung trong giờ học…để phụ huynh biết, quan tâm nhắc nhở và có giải pháp kịp thời ngăn chặn, giúp các em sửa sai. Các trường hợp khó khăn trong giáo dục cần có sự tham mưu kịp thời với Ban giám hiệu, các tổ chức đoàn thể để khuyên răn, giáo dục. Đồng thời, GVCN cần phải thường xuyên trao đổi với GV bộ môn về tình hình của lớp, về khả năng của HS. Thông qua GVBM và các hoạt động đoàn thể, GVCN sẽ nắm bắt tình hình HS một cách toàn diện hơn.
Lối sống, tác phong: Có lối sống lành mạnh, văn minh, phù hợp với bản sắc dân tộc và môi trường giáo dục; có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học. GVCN cần luôn có ý thức rèn luyện nhân cách để trở thành một tấm gương sáng cho HS noi
23
theo. Theo K.Dushinsk: “Nhân cách của nhà giáo dục có sức mạnh to lớn đối với HS đến mức không thể thay thế bằng sách giáo khoa, những lời khuyên bảo về đạo đức, hệ thống khen thưởng và kỷ luật nào cả”. Nhân cách của người thầy giáo biểu hiện ở nhiều mặt. Đó là, lòng yêu mến HS, trình độ học vấn, sự thành thạo về nghề nghiệp, lối sống, cách xử sự và kỹ năng giao tiếp của người thầy giáo…Mọi hành động, suy nghĩ, cách cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quan niệm, suy nghĩ, thái độ của HS.
Năng lực tổ chức, quản lí giáo dục tập thể và cá nhân HS của GVCN
+ Nắm vững và quán triệt nguyên tắc tiếp cận tích cực đối với từng HS dựa vào đặc điểm cá nhân và khuyến khích kỉ luật tích cực, tự giáo dục, khơi dậy lòng tự trọng và tôn trọng giá trị để hoàn thiện bản thân.
+ Có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. GVCN biết tổ chức thực hiện có kết quả kế hoạch giờ sinh hoạt lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động giáo dục đa dạng khác dựa trên sự tự quản của, sự tham gia và hợp tác của mọi HS. Ngoài ra, GVCN còn phải biết đánh giá, rút kinh nghiệm về tổ chức hoạt động giáo dục với sự tham gia của HS.
+ Có kĩ năng giải quyết các tình huống sư phạm. GVCN phải biết nhận dạng được tình huống, biết cách thu thập và xử lí thông tin để giải quyết vấn đề; xác định được các phương án giải quyết tình huống đó; biết vận dụng các tri thức tâm lí, giáo dục tính đến bối cảnh cụ thể để lựa chọn cách giải quyết hiệu quả tình huống giáo dục nảy sinh trong thực tiễn giáo dục. Dự kiến trước vấn đề có thể xảy ra khi thực hiện quyết định. Song song đó, GVCN cần có kĩ năng tổ chức thực hiện quyết định một cách có hiệu quả dựa trên sự khích lệ ý thức tự giác của HS và phối hợp các lực lượng giáo dục khác có liên quan. Linh hoạt xử lí các vấn đề có thể xảy ra. Biết tổ chức rút kinh nghiệm về cả quyết định đã lựa chọn lẫn quá trình thực hiện giải quyết vấn đề.
+ Kĩ năng tiếp cận cá nhân và giáo dục HS có hành vi tiêu cực hoặc HS cá biệt. GVCN biết cách tiếp cận cá nhân dựa trên đặc điểm tâm lí lứa tuổi và đặc điểm cá nhân. Xác định các nguyên nhân có thể của những hành vi sai lệch ở HS. Bên cạnh đó, GVCN còn biết làm cho HS thay đổi cách nghĩ, quan niệm, niềm tin sai lệch dẫn đến hành vi tiêu cực, khơi dậy lòng tự trọng và tự tôn giá trị để HS tự giáo dục và
24
hoàn thiện bản thân. GVCN phải biết kết hợp sử dụng dư luận tập thể để điều chỉnh hành vi tiêu cực của HS trong lớp, biết cách làm cho HS trong lớp ứng xử thiện chí và tôn trọng lẫn nhau. Ngoài ra, GVCN cần phối hợp với GV bộ môn, gia đình, nhà trường và các lực lượng xã hội cùng giúp đỡ HS chuyển thái độ và hành vi, biết đánh giá hiệu quả của các tác động giáo dục.
+ Đánh giá kết quả rèn luyện, tu dưỡng của HS. Tổ chức đánh giá kết quả giáo dục toàn diện của từng HS, của tổ và của toàn lớp bằng cách thu thập thông tin, minh chứng từ các nguồn khác nhau: bản thân HS, các GVBM, cha mẹ HS, Đoàn thanh niên và các lực lượng có liên quan khác; thông báo kết quả đánh giá cho HS, CMHS và những người có liên quan; sử dụng kết quả đánh giá để hướng dẫn HS tự giáo dục và biết cách lưu giữ kết quả đánh giá để lập HS từng HS và lớp.
+ Phối hợp các lực lượng trong giáo dục HS. GVCN cần phải biết lập kê hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá việc thực hiện kế hoạch phối hợp với CMHS, GVBM, Đoàn thanh niên và các lực lượng giáo dục có liên quan; thiết kế được kế hoạch làm việc với CMHS dưới các hình thức khác nhau như hội nghị CMHS, cuộc thăm gia đình HS…
+ Hiểu biết về môi trường giáo dục và đặc thù của từng môi trường giáo dục. GVCN cần nhận thức được ý nghĩa, vai trò, vị trí, đặc điểm, tác động của gia đình bạn bè, lớp học, cộng đồng xã hội, phượng tiện thông tin đại chúng đến HS. Ngoài ra, GVCN cần biết cách thu thập, phân tích và trao đổi thông tin từ nhiều phía khác nhâu để đề ra giải pháp phối hợp xử lý có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo sự an toàn về thể chất, tình cảm và xã hội cho tất cả HS.
+ Xây dựng và quản lí hồ sơ chủ nhiệm. Người GVCN phải nắm được đặc điểm, chức năng, yêu cầu, cách sử dụng, tác nghiệp từng loại hồ sơ quản lí lớp HS, cũng như hiểu được ý nghĩa của từng loại; biết cách xây dựng hồ sơ chủ nhiệm; biết cách cập nhật và quản lí hồ sơ chủ nhiệm; biết sử dụng hồ sơ chủ nhiệm để theo dõi sự phát triển cá nhân và tập thể và điểu chỉnh kế hoạch.
1.3.3. Mục tiêu bồi dưỡng
Mỗi mục tiêu giáo dục của một giai đoạn nhất định sẽ đòi hỏi CBQL, GV của mỗi nhà trường phải đáp ứng được những yêu cầu của thời đại giai đoạn đó. Đặc biệt,
25
vai trò của GVCN lớp cần được khẳng định, nhằm giúp HS trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo.
Bồi dưỡng GVCN lớp là một hoạt động thường xuyên bởi xu hướng của giáo dục thời đại ngày nay là “học tập suốt đời”. Mục tiêu của việc bồi dưỡng đội ngũ GVCN lớp THPT nhằm giúp GVCN tham gia bồi dưỡng cập nhật kiến thức về công tác chủ nhiệm đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục. Bên cạnh đó, GVCN còn nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn của GVCN. Bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực giáo dục và những năng lực khác theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp GV THPT, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Tùy theo từng đối tượng, từng yêu cầu mà HĐBD đề ra những mục tiêu thích hợp.
1.3.4. Nội dung bồi dưỡng
Bồi dưỡng kĩ năng công tác chủ nhiệm lớp là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với người GV làm công tác chủ nhiệm. Kĩ năng công tác chủ nhiệm lớp là khả năng vận dụng những kiến thức về công tác chủ nhiệm lớp để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của người GVCN lớp trong thực tiễn. Việc bồi dưỡng để hoàn thiện kỹ năng sư phạm là cần thiết và phù hợp với khả năng của các trường, là hình thức phổ biến thường làm ở các trường. Bên cạnh đó, việc bồi dưỡng năng lực sư phạm là một việc không thể thiếu của người GVCN lớp trong suốt quá trình chủ nhiệm lớp. Mỗi GVCN lớp cần phải có một trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững chắc, sâu rộng về bộ môn của mình. Vì vậy GVCN lớp cần được bồi dưỡng những kiến thức cập nhật, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của mình. Trên cơ sở những kiến thức chuyên môn chắc chắn mới thể hiện kỹ năng sư phạm nhuần nhuyễn. Có nghĩa là người GVCN lớp cần được bồi dưỡng cả về lĩnh vực kỹ năng và kiến thức.
Trong lĩnh vực kỹ năng nhà trường cần chú ý bồi dưỡng cho GVCN kỹ năng tham vấn, tư vấn hướng dẫn cho HS THPT, giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho HS THPT. Kỹ năng giải quyết các tình huống trong công tác chủ nhiệm. Trước những thay đổi nhanh chóng trong xã hội, những thay đổi về mặt kinh tế xã hội và thay đổi
26
tâm sinh lý của chính bản thân trẻ chưa thành niên đang có tác động lớn đối với các em. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống và giá trị sống là hết sức quan trọng giúp các em: rèn luyện hành vi có trách nhiệm, biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng phó với thách thức trong cuộc sống, giúp HS hình thành những giá trị chung cho nhiều người và toàn xã hội như lòng trung thực, hoà bình, tôn trọng, yêu thương, công bằng, tình bằng hữu, lòng vị tha. Ngoài ra, chính những thay đổi trong tâm sinh lý của HS ở độ tuổi vị thành niên đã tạo nên vô vàng những tình huống sư phạm mà người GVCN cần phải khéo léo giải quyết
Trong lĩnh vực kiến thức: cần chú trọng vào việc cập nhật, bổ sung, kiến thức về công tác chủ nhiệm cho GVCN để họ có thể nắm vững những kiến thức mới vừa được bổ sung vào quá trình chủ nhiệm lớp, đặc biệt là những luật giáo dục có liên quan đến công tác chủ nhiệm. Xem xét nội dung công tác chủ nhiệm lớp trong thục tiễn giáo dục, Nhà trường đã tổ chức HĐBD đội ngũ GVCN về các nội dung sau:
- Đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS THPT. Cùng với những thay đổi của xã hội, việc trang bị thêm những kiến thức về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, cách giao tiếp ứng xử sư phạm sao cho phù hợp và hiệu quả với lứa tuổi HS cũng là một trong những nhu cầu cần phải trang bị cho GVCN hiện nay.
- Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và hướng nghiệp ở trường THPT. Trên thực tế, kiến thức của người thầy bao gồm nhiều mặt. Trước hết là kiến thức vững vàng, sâu rộng về chuyên môn trong đó kết hợp nhuần nhuyễn lý thuyết, thực tế và kinh nghiệm, giữa nhận thức và thực hành. Bên cạnh kiến thức chuyên môn, GVCN còn cần những kiến thức rộng rãi về xã hội, về con người, về các ngành khoa học khác. Vinh dự của thầy giáo là thông qua dạy chữ dạy người. Nội dung ngoài giờ lên lớp và hướng nghiệp là những hoạt động, môn học mang tính chất bắt buộc ở bậc THPT hiện hành. Mục tiêu của nó cung cấp, hình thành cho học sinh những kiến thức, giá trị cơ bản về xã hội, đất nước, dân tộc, về ngành nghề…từ đó giúp các em có được kỹ năng cần thiết, vận dụng vào thực tiễn đời sống. Vì vậy, bồi dưỡng kiến thức và cách thức tổ chức tiết học cho hoạt động ngoài giờ lên lớp và hướng nghiệp là cần thiết cho tất cả GVCN lớp.
27
- Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm. Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm là rất quan trọng với GVCN trong quá trình chủ nhiệm lớp và được các cấp lãnh đạo quan tâm. Vì công tác chủ nhiệm lớp cũng là công tác tác quản lí. Để quản lí lớp chủ nhiệm tốt thì người GVCN cần phải lập kế hoạch chủ nhiệm khoa học ngay từ đầu năm và có bổ sung điều chỉnh trong năm học. Do đó, CBQL cần quan tâm việc tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng về lập kế hoạch công tác chủ nhiệm cho đội ngũ GVCN lớp.
- Đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức HS THPT. Tại khoản 2 điều 31 Điều lệ Trường Trung học qui định: Giáo viên chủ nhiệm, ngoài nhiệm vụ qui định đối với giáo viên còn có nhiệm vụ: “Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng, kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi số điểm và học bạ học sinh”. Việc đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của HS không thể theo cảm tính mà phải có cơ sở pháp lý. Để đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức HS, GVCN phải dựa vào 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Điều lệ trường THPT để đánh giá xếp loại kết quả rèn luyện đạo đức cho HS.
- Xây dựng kế hoạch phối hợp với gia đình HS và cộng đồng trong công tác giáo dục HS THPT và phối hợp với các tổ chức xã hội trong công tác giáo dục. Phối hợp với gia đình, cộng đồng và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục HS là một trong 4 chức năng cơ bản của GVCN lớp. Vì vậy, để đội ngũ GVCN lớp làm tốt điều này, thì GVCN lớp cần được quan tâm, hướng dẫn và bồi dưỡng thường xuyên.
- Phương pháp tổ chức giờ sinh hoạt chủ nhiệm lớp. Phương pháp sư phạm của người thầy đóng vai trò quan trọng. Phương pháp không tốt, hiệu quả giáo dục kém đi nhiều. Phương pháp sư phạm bao gồm những vấn đề mà trước hết là cách khơi dậy ở học sinh sự say mê học tập, sự khát khao hướng về cái thiện và làm cho học sinh hứng thú trong việc tìm tòi, khám phá cái mới, cái đẹp. Để cho HS thấy được ý nghĩa của giờ sinh hoạt chủ nhiệm thì đòi hỏi người GVCN phải có nghệ thuật tổ chức và thông qua giờ sinh hoạt chủ nhiệm, GVCN có thể tư vấn tâm cho HS nhiều mặt. Vì vậy, Hiệu trưởng cần thường xuyên tổ chức HĐBD này cho GVCN lớp.
28
Tóm lại, căn cứ Thông tư số 30/2011/TT-BGD-ĐT ngày 8 tháng 8 năm 2011 thông tư ban hành chương trình bồi dưỡng thường xuyên GV phổ thông trong đó có mô đun 31, 32, 33 tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm cho GVCN THPT có rất nhiều nội dung để chọn lựa bồi dưỡng cho GVCN lớp. Tùy tình hình thực tế của đơn vị mà HT nhà trường lựa chọn nội dung bồi dưỡng cho phù hợp.
1.3.5. Hình thức và phương pháp bồi dưỡng Hình thức bồi dưỡng
Tùy theo nội dung và các điều kiện hiện có, các trường THPT thường có các hình thức bồi dưỡng sau:
Bồi dưỡng tại chỗ: là tổ chức bồi dưỡng ngay tại trường nơi GVCN lớp công tác, thông qua sinh hoạt nhóm, tổ chuyên môn, tổ chức hội thảo theo từng trường hoặc cụm trường. Có nhiều hoạt động phong phú để bồi dưỡng GVCN lớp theo hướng này:
+ Tổ chức cho GV dự giờ, thăm lớp lẫn nhau.
+ Tổ chức hội thảo chuyên đề công tác chủ nhiệm.
+ Tổ chức rút kinh nghiệm sau mỗi học kì, mỗi năm học.
+ Các GVCN lớp trong trường có thể giúp đỡ lẫn nhau, làm việc theo cặp hoặc theo tổ. GVCN lớp giỏi giúp GVCN lớp còn yếu về nghiệp vụ, GVCN lớp có kinh nghiệm chủ nhiệm giúp GVCN lớp chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm.
+ Tổ chức cho GVCN lớp giao lưu, trao đổi kinh nghiệm.
+ Tạo điều kiện cho GVCN lớp tham dự các hội thảo, seminar về công tác chủ nhiệm lớp.
+ Mời chuyên gia, nhà khoa học có kinh nghiệm về lĩnh vực công tác chủ nhiệm để tập huấn và báo cáo chuyên đề về công tác chủ nhiệm.
+ Phát động các cuộc thi về GVCN giỏi.
Bồi dưỡng tập trung: tổ chức bồi dưỡng theo khóa hay theo từng đợt, từng chu kỳ tại các trường sư phạm hay các cơ sở bồi dưỡng GV, được tổ chức thông qua các lớp tập huấn.