1.3.2. Biện pháp kinh tế
1.3.2.1. Đầu tư tài chính cho công tác NKT
Để các quyền của NKT được thực hiện và được thực hiện một cách đầy đủ cần đặc biệt quan tâm đến công tác đầu tư tài chính. Nguồn tài chính phục vụ công tác NKT trước hết và chủ yếu từ ngân sách nhà nước, bên cạnh đó là nguồn kinh phí hỗ trợ, đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho việc tạo môi trường xã hội tiếp cận cho NKT, nuôi dưỡng và chăm sóc NKT...
Nếu nhìn một cách tổng quát nhất thì các nguồn tài chính này sẽ được chi cho các hoạt động như: Xây dựng chính sách, pháp luật về NKT, xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể cho công tác NKT, đầu tư xây dựng, cải tạo các công trình công cộng, trụ sở làm việc, nhà ở,... có đủ điều kiện tiếp cận cho NKT, trực tiếp giải quyết các chính sách liên quan và giải quyết chế độ trợ giúp NKT.
1.3.2.2. Thực hiện các chế độ bảo trợ xã hội đối với Người khuyết tâṭ
Việc thực hiện các chế độ bảo trợ xã hội nhằm bảo đảm hoặc trợ giúp NKT đạt được mức sống tối thiểu hoặc thích đáng. Đối tượng hướng tới của chính sách bảo trợ xã hội là những NKT chưa đến tuổi lao động, đã hết tuổi lao động và NKT trong độ tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động hoặc tuy vẫn làm việc nhưng không tạo ra được thu nhập đảm bảo đời sống tối thiểu...
UN thừa nhận quyền của NKT được hưởng mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình, bao gồm đủ ăn, đủ mặc, có nhà và được cải thiện điều kiện sống thường xuyên, thừa nhận quyền được sống bảo trợ xã hội của NKT, cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo hộ và thúc đẩy việc thực hiện quyền này trên thực tế mà không có sự phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật.
Việt Nam cũng coi thực hiện bảo trợ xã hội là một biện pháp thực hiện
quyền bảo đảm mức sống thích đáng của NKT mà tự họ khó hoặc không thể lo được cuộc sống cho chính mình. Nhà nước quy định và thực hiện nhiều chế độ bảo trợ xã hội khác như: trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng, trợ cấp nuôi dưỡng NKT tại cơ sở bảo trợ xã hội, trợ cấp mai táng...đồng thời quy định trách nhiệm thực hiện bảo trợ xã hội cho NKT.
1.3.3. Biện pháp pháp lí
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền Được Đảm Bảo Tự Do Cơ Bản
- Quyền Được Hỗ Trợ Đặc Biệt, Có Cơ Hội Và Được Phát Triển Bằng Chính Công Việc Do Bản Thân Tự Do Lựa Chọn
- Các Biện Pháp Thúc Đẩy Và Bảo Vệ Quyền Dân Sự Của Người Khuyết Tật Ở Việt Nam
- Nội Dung Các Quy Định Pháp Luật Về Các Quyền Dân Sự Cơ Bản Của Người Khuyết Tật Ở Việt Nam
- Quyền Tiếp Cận Nhà Chung Cư, Công Trình Công Cộng, Tham Gia Giao Thông, Công Nghệ Thông Tin Và Truyền Thông Đối Với Người Khuyết Tâṭ
- Thực Tiễn Thực Hiện Các Quyền Dân Sự Cơ Bản Của Nkt Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Nếu như biện pháp xã hội và biện pháp kinh tế trực tiếp thực hiện các quyền của NKT thì ngược lại, thực hiện các biện pháp pháp lí sẽ tạo cơ sở, môi trường pháp lí cho việc thực hiện các biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế hoặc đảm bảo cho việc thực hiện các biện pháp xã hội hoặc biện pháp kinh tế. Điều này cho thấy rõ sự quan hệ hỗ trợ nhau giữa các biện pháp, tạo thành hệ thống biện pháp đồng bộ trong việc bảo đảm quyền của NKT.
Nội dung chủ yếu của biện pháp này gồm:
1.3.3.1. Ban hành pháp luật về Người khuyết tâṭ
Pháp luật về NKT chính là cơ sở pháp lí tạo ra các quyền cho NKT, đồng thời cũng là cơ sở pháp lí để thực hiện tất cả các biện pháp đảm bảo việc thực hiện các quyền này trên thực tế. Đây chính là lí do ra đời của Công ước về quyền của NKT và một loạt công ước, khuyến nghị có liên quan của Tổ chức lao động quốc tế.
Ở Việt Nam, trong một thời gian không dài, nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện pháp luật hướng đến mục tiêu xây dựng cơ sở pháp lí vững chắc nhất cho việc thực hiện quyền của NKT.
Luật NKT năm 2010 quy định các nội dung nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NKT thực hiện bình đẳng về các quyền và phát huy khả năng ổn định đời sống chính trị, hòa nhập cộng đồng, quy định chính sách trợ giúp, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng. Bên cạnh đó còn có 20 luật liên quan đến NKT như: Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật dạy nghề, Luật
giáo dục, Luật xây dựng,... Và trên 200 văn bản hướng dẫn thi hành luật đã góp phần cải thiện đời sống NKT và làm thay đổi nhận thức của xã hội về NKT, tạo môi trường pháp lí, môi trường xã hội thuận lợi để NKT hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp NKT.
Trên cơ sở đó, hàng năm có gần một triệu NKT được trợ cấp từ ngân sách nhà nước, hàng trăm lượt người được hỗ trợ chỉnh hình, phục hồi chức năng, được cung cấp phương tiện trợ giúp, hàng năm trẻ em khuyết tật học hòa nhập ở các cơ sở giáo dục và hàng nghìn trẻ em khuyết tật được học ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt, được học nghề và giới thiệu việc làm. Các tổ chức NKT ngày càng được mở rộng ở các tỉnh, thành phố.
1.3.3.2. Áp dụng các trách nhiệm pháp lí đối với các hành vi vi phạm quyền của Người khuyết tâṭ
Mặc dù có hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ và hợp lí về quyền của
NKT, nhưng trên thực tế liệu các chủ thể có liên quan có ý thức đầy đủ và tự giác thi hành nghiêm pháp luật hay không là vấn đề được đặt ra. Vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà khả năng xảy ra vi phạm, xâm hại đến quyền của NKT là khó tránh khỏi. Vì vậy, lúc này áp dụng các loại trách nhiệm pháp lí khác nhau phù hợp với các hành vi vi phạm trở thành biện pháp không thể thiếu nhằm bảo đảm quyền của NKT. Về phương diện pháp lí, đi liền với việc tạo hành lang pháp lí cần thiết cho việc thiết lập, duy trì và bảo vệ quyền lợi của NKT chính là việc quy định và áp dụng các biện pháp chế tài thích hợp đối với các chủ thể đã xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NKT.
Ở Việt Nam, trong Luật NKT năm 2010 và các văn bản pháp luật khác đã có các quy định về việc áp dụng trách nhiệm pháp lí đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về NKT nói chung và vi phạm về quyền dân sự của NKT nói riêng.
Như vậy, tùy từng đối tượng và từng trường hợp vi phạm mà có thể áp dụng một hoặc đồng thời một số trách nhiệm pháp lí như: Trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong đó:
Trách nhiệm kỉ luật có thể áp dụng đối với cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật về quyền của NKT, nhất là cán bộ trực tiếp làm công tác NKT. Tùy mức độ vi phạm và đối tượng thực hiện hành vi vi phạm mà cán bộ, công chức có thể phải chịu một trong các hình thức kỉ luật như: khiển trách, cảnh cáo, hạ một bậc lương, cách chức, giáng chức, buộc thôi việc.
Trách nhiệm hành chính có thể áp dụng cho các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về quyền của NKT chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật về xử lí vi phạm hành chính nói chung và xử phạt hành chính trong lĩnh vực công tác NKT nói riêng. Các hình thức xử phạt hành chính có thể bị áp dụng là cảnh cáo, phạt tiền, kèm theo các hình thức xử phạt chính thì có thể áp dụng các biện pháp bổ sung tùy từng trường hợp cụ thể.
Trách nhiệm hình sự có thể được áp dụng đối với các cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về quyền của NKT mà vi phạm đó có dấu hiệu phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm gây tổn hại về vật chất và tinh thần của NKT. Việc xác định mức bồi thường, cách thức thực hiện bồi thường, việc thi hành án, quyết định của tòa án về bồi thường thiệt hại cho NKT... được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật thi hành án dân sự.
Nói tóm lại, qua những phân tích trên chúng ta thấy có nhiều các biện
pháp khác nhau nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền dân sự của NKT. Căn cứ vào nội dung các biện pháp này có thể chia thành ba nhóm: biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế, biện pháp pháp lí. Mỗi biện pháp khi thực hiện sẽ đạt được những mục tiêu khác nhau trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của NKT. Song các biện pháp này không tồn tại một cách độc lập mà giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tạo thành một hệ thống biện pháp nhằm đảm bảo tốt nhất quyền dân sự của NKT.
1.4. CÁC CƠ CHẾ QUỐC TẾ VÀ QUỐC GIA VỀ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜ I KHUYẾ T TÂṬ
Bảo vệ và thúc đẩy quyền của NKT trước hết là trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, song nó cũng là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Việc xác định các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan là rất quan trọng để bảo đảm thực hiện hóa các quyền con người trên thực tế. Ngay cả khi đã xác định được các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể thì việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của NKT vẫn chưa có hiệu quả nếu không thiết lập được các cơ chế cho việc thực thi các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ đó.
Cơ chế về bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự của NKT cũng nằm trong cơ chế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung với những cơ chế cụ thể như:
1.4.1. Cơ chế quốc tế
Cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự của NKT bao gồm cơ chế dựa trên Hiến chương và cơ chế dựa trên Công ước bao gồm:
1.4.1.1. Cơ chế dựa trên Hiến chương
Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của UN nên cả 6 cơ quan chính của UN đều có trách nhiệm trên lĩnh vực này.
Đại hội đồng (ĐHĐ) là cơ quan đại diện chính của UN, bao gồm tất cả các thành viên. Trách nhiệm của ĐHĐ trong vấn đề quyền con người được đề cập trong Điều 13 hiến chương, theo đó ĐHĐ có trách nhiệm tổ chức nghiên cứu và thông qua những kiến nghị nhằm: “Thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế và thực hiện các quyền và tự do cơ bản của con người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ và tôn giáo” [10, Điều 13]. Thêm vào đó Điều 10 Hiến chương cũng quy định: “ĐHĐ có quyền thảo luận về tất cả các vấn đề hoặc các công việc thuộc phạm vi Hiến chương, hoặc thuộc quyền hạn và chức năng của bất kì cơ quan nào được ghi trong Hiến chương, trừ những quy định tại điều 32” [10, Điều 10]. Như vậy, về mặt hình thức, ĐHĐ là cơ quan có trách nhiệm cao nhất trên lĩnh vực quyền con người và có thẩm quyền với tất cả những hoạt động chính trên.
Hội đồng Bảo An (HĐBA) Theo Hiến chương, HĐBA có các chức năng chính là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và xem xét giải quyết các tranh chấp hoặc tình huống có thể gây tổn hại tới việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Về cơ bản, trên phương diện quyền con người, HĐBA có các thẩm quyền như:
Xem xét những vi phạm nghiêm trọng về quyền con người mà đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế theo quy định tại Điều 39 Hiến chương và thông qua những biện pháp cưỡng chế nếu cần thiết.
Thành lập các tòa án hình sự quốc tế lâm thời để xét xử những vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế.
Về nguyên tắc, HĐBA là cơ quan duy nhất trong các cơ quan hành chính của UN có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi có các hành vi vi phạm quyền con người, trên cơ sở quy định tại Chương VII Hiến chương. Như vậy, hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tuy về mặt hình thức
không thuộc chức năng chính của HĐBA, song trên thực tế, cơ quan này có một vai trò đặc biệt trong cơ chế của UN về quyền con người, thể hiện trong việc xử lí các vi phạm quyền con người. Tính chất đặc biệt thể hiện ở chỗ, khi việc xử lí các vi phạm quyền con người được gắn liền với chức năng duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, chúng sẽ có hiệu lực cưỡng chế, điều mà thuộc về quyền lực riêng HĐBA.
Hội đồng kinh tế và xã hội (ECOSOC) Có vai trò quan trọng bậc nhất trong cơ chế của UN về quyền con người. Trong việc xây dựng bộ máy, cơ quan này đã thiết lập ra Ủy ban quyền con người, Ủy ban về vị thế của phụ nữ và Ủy ban ngăn ngừa tội ác và tư pháp hình sự. Đây là những cơ quan chuyên môn có vai trò như những “động cơ” trong bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc. Những cơ quan này có chức năng rất rộng, từ việc nghiên cứu các vấn đề, đề xuất xây dựng bộ máy, các chương trình, hoạt động, soạn thảo các văn kiện cho đến giám sát thực hiện các văn kiện quốc tế về quyền con người.
ECOSOC còn có một chức năng quan trọng nữa đó là điều hành cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, mà một trong những mục tiêu của cơ chế này thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ trên phạm vi toàn cầu các quyền và tự do cơ bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính và ngôn ngữ.
Hội đồng quản thác (HĐQT) là một trong những cơ quan chính của Liên hợp quốc, được thành lập để trợ giúp ĐHĐ trong việc thực hiện các chức năng của Liên hợp quốc liên quan đến hệ thống quản thác quốc tế, trừ những khu vực được xác định là có tính chiến lược thuộc trách nhiệm của HĐBA.
Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là cơ quan xét xử chính của UN. Có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp lý mà các bên nêu ra liên quan đến Hiến chương UN và các điều ước quốc tế do UN ban hành. Về nguyên tắc, ICJ cũng có chức năng xem xét, xử lý các tranh chấp về quyền con người. Tuy
nhiên, khác với các cơ chế khác, chủ thể đưa ra các tranh chấp về quyền con người ra ICJ giải quyết phải là các quốc gia thành viên UN (chứ không phải là các cá nhân, nhóm các nhân, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ...). Thêm vào đó, việc xử lý tranh chấp bởi ICJ được dựa trên cơ sở tranh tụng giữa các bên có liên quan trước phiên tòa, trong khi việc xử lý các tình huống về quyền con người bởi ĐHĐ và HĐBA dựa trên cơ sở thảo luận và biểu quyết trong tập thể các thành viên của hai cơ quan này.
Ngoài chức năng xét xử, Điều 96 của Hiến chương còn quy định ICJ có chức năng tư vấn, theo đó “ ĐHĐ và HĐBA có thể yêu cầu ICJ đưa ra những lời khuyên về vấn đề pháp lý” [10, Điều 96]. Các cơ quan khác của Liên hợp quốc, nếu được ĐHĐ cho phép cũng có thể hỏi ý kiến ICJ về những vấn đề pháp lý đặt ra trong phạm vi hoạt động của mình.
Ban thư ký Liên hợp quốc là cơ quan hành chính của UN. Người đứng đầu của cơ quan là này là Tổng thư ký Liên hợp quốc. Với vị thế là cơ quan hành chính cao nhất của UN, Ban thư ký có chức năng cung cấp dịch vụ hành chính cho tất cả của các cơ quan của UN. Trong số các cơ quan trong Ban thư ký, có các bộ phận trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực quyền con người mà quan trọng nhất là Văn phòng cao ủy UN về quyền con người và bộ phận vì sự tiến bộ phụ nữ của Cục phát triển xã hội và các vấn đề nhân đạo. Các cơ quan này cung cấp những dịch vụ văn phòng và điều phối các chương trình hoạt động về quyền con người trong cả hệ thống UN.
Tổng thư ký với tư cách là viên chức hành chính cao nhất của UN, có thẩm quyền chỉ đạo mọi công việc và hoạt động của Ban thư ký. Tổng thư ký có thể đưa ra những định hướng cho các hoạt động quyền con người của LHQ, tham gia và điều hành các cuộc hội nghị, hội thảo hoặc các cuộc họp của các cơ quan UN về quyền con người, chỉ định đại diện đặc biệt của mình để xem xét, nghiên cứu tình hình quyền con người ở một quốc gia, khu vực...