Quyền Được Hỗ Trợ Đặc Biệt, Có Cơ Hội Và Được Phát Triển Bằng Chính Công Việc Do Bản Thân Tự Do Lựa Chọn

giá và tự quản của con người và có tính tới những nhu cầu cụ thể về giới và tuổi tác. Bên cạnh đó các quốc gia thành viên cần đưa ra những chính sách và luật pháp có hiệu quả, đặc biệt tập trung vào phụ nữ và trẻ em, nhằm bảo đảm phát hiện, điều tra và nếu phù hợp đem ra truy tố những trường hợp bóc lột, bạo hành hay lạm dụng NKT.

1.2.1.4 Quyền được hỗ trợ đặc biệt, có cơ hội và được phát triển bằng chính công việc do bản thân tự do lựa chọn

a. Quyền được hưởng các dịch vụ y tế

NKT có quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đạt tiêu chuẩn cao nhất mà không bị phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật. Việc hưởng các dịch vụ y tế đối với NKT là thiết yếu nhằm phục hồi chức năng, sức khỏe và khả năng lao động. Trong lĩnh vực này các quốc gia cần thực hiện các biện pháp phù hợp để nhằm đảm bảo NKT có quyền tiếp cận với các dịch vụ y tế một cách thích hợp. Theo quy định tại Điều 25 Công ước quốc tế về quyền của NKT thì phải làm những việc như:

Thứ nhất: Cung cấp cho NKT các dịch vụ và chương trình y tế cùng mức, có chất lượng, đạt tiêu chuẩn, miễn phí hoặc với mức phí chấp nhận được, tương tự như cung cấp cho những người không khuyết tật khác.

Thứ hai: Cung cấp các dịch vụ y tế cần thiết mà NKT cần theo dạng tật của họ, bao gồm phát hiện sớm và can thiệp sớm, nếu phù hợp và các dịch vụ được thiết kế nhằm giảm thiểu và ngăn chặn khuyết tật, bao gồm ở trẻ em và người cao tuổi.

Thứ ba: Cung cấp các dịch vụ y tế này ở những nơi càng gần với cộng đồng mà NKT sinh sống càng tốt, kể cả ở vùng nông thôn. Không được phân biệt đối xử với NKT trong việc cung cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm nhân thọ nếu bảo hiểm đó được luật quốc gia cho phép và bảo hiểm này phải được cung cấp theo phương thức công bằng và hợp lí. Quốc gia phải ngăn chặn sự

từ chối cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc chăm sóc y tế, hoặc thực phẩm và thức uống mang tính phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật.

Các quy định này nhằm đảm bảo cho NKT tiếp cận và sử dụng được các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe. Bản thân NKT không thể tự chăm sóc cho chính mình nên việc Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi về y tế sẽ giảm bớt được phần nào tình trạng của NKT

b. Quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

NKT cần được hỗ trợ và phục hồi chức năng nhằm tăng cường khả năng hòa nhập của họ vào đời sống xã hội. Các quốc gia cần thực thi các biện pháp phù hợp và có hiệu quả, bao gồm hỗ trợ đồng cảnh, giúp NKT đạt được và duy trì tối đa sự độc lập, khả năng đầy đủ về thể chất, trí tuệ, xã hội và nghề nghiệp, sự hòa nhập và tham gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực đời sống. Để đạt được điều đó, các quốc gia thành viên sẽ tổ chức, tăng cường và mở rộng dịch vụ, chương trình toàn diện về hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng, nhất là trong lĩnh vực y tế, việc làm, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác. Các quốc gia sẽ thúc đẩy sự phát triển công tác tập huấn ban đầu và liên tục dành cho những chuyên viên và cán bộ làm việc trong ngành hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng, thúc đẩy sự hiểu biết sẵn có, hiểu biết và việc sử dụng các thiết bị, kĩ thuật hỗ trợ được thiết kế dành riêng cho NKT bởi vì chúng có liên quan đến hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng.

c. Quyền có mức sống thích đáng và bảo trợ xã hội đầy đủ

Bảo vệ, thúc đẩy một số quyền dân sự của người khuyết tật ở Việt Nam - 5

NKT do những khiếm khuyết của mình nên họ không thể tự chăm lo cho đời sống của mình được, nhiều NKT không thể tự kiếm sống nuôi bản thân và gia đình nên việc duy trì cuộc sống của NKT chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ của xã hội để tồn tại. Chính vì vậy, mà Nhà nước và xã hội cần quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ họ để họ đảm bảo đời sống của mình một cách tốt nhất.

NKT có quyền được hưởng mức sống đầy đủ cho bản thân và gia đình họ, bao gồm đủ thức ăn, quần áo, nhà ở và có quyền không ngừng cải thiện

điều kiện sống. Khi gặp khó khăn về đời sống vật chất, NKT được nhận bảo trợ xã hội và được hưởng quyền này mà không bị phân biệt đối xử.

Cũng theo quy định tại Điều 28 của Công ước về quyền của người khuyết tật, các quốc gia thành viên phải thực thi những bước phù hợp để bảo vệ và thúc đẩy công nhận quyền này, bao gồm các biện pháp như:

Bảo đảm NKT được bình đẳng tiếp cận đến nguồn nước sạch và tiếp cận các dịch vụ, thiết bị phù hợp và có thể chi trả được tới sự hỗ trợ cho các nhu cầu có liên quan đến khuyết tật.

Bảo đảm NKT trong đó đặc biệt quan tâm đến phụ nữ, trẻ em khuyết tật và người cao tuổi khuyết tật để họ tiếp cận các chương trình bảo trợ xã hội và chương trình giảm nghèo.

Bảo đảm NKT và gia đình họ đang sống trong tình cảnh nghèo đói được tiếp cận sự hỗ trợ của Nhà nước về những chi phí liên quan đến khuyết tật bao gồm được đào tạo đầy đủ, tư vấn, hỗ trợ tài chính và chăm sóc nghỉ dưỡng.

Bảo đảm NKT được tiếp cận các chương trình công cộng về nhà ở.

Bảo đảm NKT được tiếp cận bình đẳng những lợi ích và chương trình hưu trí [13, Điều 28, khoản 2].

1.2.2. Vấn đề nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền của Người

khuyết tât tại việt nam

Về phương diện pháp lí, các quy định liên quan đến NKT (trước đây và hiện nay vẫn có văn bản dùng với thuật ngữ người tàn tật) được quy định từ rất sớm song tư tưởng pháp lí còn hạn chế về nhận thức dưới góc độ nhân quyền. Về vấn đề quyền dân sự của NKT thì hiện nay có 2 công ước quan trọng điều chỉnh đến quyền dân sự của NKT đó là công ước quyền của NKT và công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966). Hiện nay, Việt Nam đã tham gia kí kết cả 2 công ước này. Việt Nam gia nhập ICCPR vào ngày 24/9/1982 và có hiệu lực vào ngày 24/1/1982.

Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội về người tàn tật ngày 30/7/1998 – văn bản có quy định dành riêng cho đối tượng là NKT bao gồm 8 chương, 35 điều. Với quan điểm chỉ đạo Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đồi sống, hòa nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. NKT được Nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy đinh của pháp luật. Pháp lệnh đã quy định nội dung, nguyên tắc, tổ chức thực hiên, phân công trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và chính quyền các cấp, bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và trách nhiệm của người tàn tật đồng thời tạo điều kiện cho họ được sống hòa nhập với cộng đồng xã hội. Gia đình NKT có trách nhiệm bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giúp đỡ NKT trong gia đình. Nhà nước và xã hội thực hiện các chương trình, đề án, chính sách đối với người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và nuôi dưỡng, giáo dục văn hóa, học nghề và việc làm, hoạt động văn hóa, thể thao và sử dụng công trình công cộng...đối với người tàn tật. Sự ra đời Pháp lệnh về người tàn tật năm 1988 đã góp phần vào cải thiện đời sống NKT đồng thời đem lại nhiều thay đổi tích cực về mặt kinh tế - xã hội. Pháp lệnh cũng là cơ sở pháp lí và nguyên tắc để Chính phủ, các bộ, ngành đưa vấn đề liên quan đến NKT vào các luật chuyên ngành để trình Quốc hội thông qua đồng thời xây dựng và ban hành các chính sách, chương trình, dự án trợ giúp người tàn tật hòa nhập cộng đồng, tổ chức huy động nguồn lực quốc tế, trong nước trợ giúp người tàn tật có hiệu quả.

Từ khi Pháp lệnh người tàn tật được ban hành đến hết năm 2008, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành và cơ quan trung ương đã ban hành 19 luật chuyên ngành quy định về các nội dung liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của NKT, trách nhiệm của gia đình, Nhà

nước và xã hội đối với NKT. Đặc biệt, bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007) có mục riêng quy định về lao động là người tàn tật. Luật dạy nghề năm 2006 có 01 chương, 5 điều quy định chi tiết về dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật. Luật giáo dục năm 2005 không có chương riêng quy định đối với giáo viên, học sinh là NKT nhưng có 8 điều quy định liên quan đến giáo dục đối với học sinh bị tàn tật, khuyết tật. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em có 5 điều quy định liên quan đến các giải pháp, chính sách dành riêng đối với trẻ em khuyết tật, tàn tật. Luật trợ giúp pháp lí năm 2006 có 3 điều. Luật thể dục thể thao năm 2006 có 1 điều quy định về thể dục thể thao đối với NKT. Luật công nghệ thông tin năm 2006 có 3 điều quy định đối với NKT. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, luật giao thông đường bộ năm 2008, luật hàng không dân dụng năm 2006, luật đường sắt năm 2005, luật xây dựng năm 2003, luật thanh niên năm 2005, luật bảo hiểm xã hội năm 2007, Bộ luật dân sự năm 2005, luật tổ chức chính phủ năm 2001, luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 1999), Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005, pháp lệnh nghĩa vụ lao động công ích năm 1999, Pháp lệnh người cao tuổi năm 2000, pháp lệnh thư viện năm 2000, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh dân số năm 2003 đều có các quy định liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền, chính sách và các biện pháp đảm bảo để NKT thực hiện các quyền và hòa nhập cuộc sống xã hội như những người bình thường.

Nhìn chung, trong 10 năm kể từ khi Pháp lệnh người tàn tật được ban hành, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp người tàn tật do các cơ quan từ trung ương đến địa phương ban hành tương đối đầy đủ, đã thể chế hóa các quan hệ chính trị, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội có liên

quan đến NKT vào hệ thống và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Điều này đã tạo môi trường pháp lí thuận lợi để NKT hòa nhập cộng đồng và các cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách, chế độ, giải pháp trợ giúp NKT. Mặt khác, do vấn đề người tàn tật quy định ở nhiều văn bản nên dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc triển khai thực hiện ở cả trung ương và địa phương, tính thống nhất trong các văn bản luật chưa cao do có sự khác nhau về thời gian ban hành, các lĩnh vực điều chỉnh. Nhìn chung phần lớn các văn bản luật mới chỉ quy định chung chung về nguyên tắc mà chưa quy định chính sách, giải pháp, biện pháp, nguồn lực, tổ chức thực hiện. Vì vậy có những quy định sau nhiều năm ban hành vẫn không thực hiện được. Do đó, để các văn bản luật này đi vào thực tiễn cần ban hành những văn bản hướng dẫn dưới luật.

Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều tín hiệu lạc quan cho NKT từ những thay đổi bước đầu về nhận thức của xã hội và cơ quan công quyền Việt Nam song chính sách và pháp luật về NKT trong giai đoạn này vẫn ảnh hưởng bởi tu duy bảo trợ xã hội, dưới góc độ quyền đó chỉ mới là quyền công dân nói chung mà thiếu hẳn sự đảm bảo về điều kiện, khả năng và sự tiếp cận hợp lí quyền cho NKT.

Từ khi Việt Nam tham gia Công ước quyền của NKT năm 2006 thì đã có những thay đổi về nhận thức những vấn đề liên quan đến NKT. Những chính sách pháp luật liên quan đến người khuyết tật ở nước ta được quy định ở nhiều văn bản dẫn đến việc khó khăn triển khai tổ chức thực hiện cả ở trung ương và địa phương. Hơn nữa, việc tham gia kí Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật đã làm thay đổi nhận thức của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Nhu cầu cần có một văn bản pháp luật thống nhất và tối cao quy định về quyền của người khuyết tật ngày càng cấp thiết. Tại kỳ họp thứ 7, thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật người khuyết tật, góp

phần hoàn thiện các quy định pháp luật về người khuyết tật tại Việt Nam. Tính đến nay, đây là văn bản hoàn chỉnh nhất, chứa đựng các quy định trực tiếp liên quan đến quyền lợi của người khuyết tật tại Việt Nam. Sự ra đời của văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng, một mặt tạo ra khung pháp lý cần thiết để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của NKT với tư cách là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội; mặt khác, ban hành luật về NKT cũng thể hiện sự chủ động và tích cực của Việt Nam trong việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, đặc biệt là các cam kết trong các điều ước quốc tế về nhân quyền.

Ngày 09/01/2006, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/2006/CT – TTg về việc đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp người tàn tật. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho các bộ, ngành tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ trợ giúp NKT, trong đó giao cho Bộ Lao động thương binh và xã hội:

Tiếp tục rà soát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất biện pháp sửa đổi, bổ sung hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các chính sách đối với người tàn tật. Xây dựng và trình thủ tướng chính phủ đề án hỗ trợ người tàn tật giai đoạn 2006

– 2010, tổ chức thực hiện đề án sau khi được phê duyệt [23].

Tiếp theo đó Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 239/2006/QĐ – TTg ngày 24/10/2006 về việc phê duyệt Đề án trợ giúp người tàn tật gia đoạn 2006 – 2010. Ngày 20/10/2007, Việt Nam kí kết tham gia Công ước quốc tế về quyền của NKT. Ngày 17/6/2010, tại kì họp thứ 7 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua luật NKT với 10 chương, 53 điều.

Ngày 05/08/2012, Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 1019/QĐ – TTg phê duyệt đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012 – 2020. Ngoài ra còn nhiều

văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác quy định về NKT như: Bộ luật lao động năm 2012, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật giáo dục năm 2005, luật đường sắt năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật hàng không dân dụng năm 2006, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, Luật dạy nghề năm 2006, Luật trợ giúp pháp lí năm 2006, Luật công nghệ thông tin năm 2006, Luật giao thông đường bộ năm 2008,...

Bộ lao động, thương binh và xã hội được giao trách nhiệm giải quyết các vấn đề về NKT đồng thời có trách nhiệm điều phối việc thực hiện pháp luật liên quan đến vấn đề NKT. Các bộ, ngành khác có liên quan cũng có trách nhiệm về lĩnh vực này như: Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ y tế, Bộ xây dựng...

Các ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã là những đơn vị thực hiện trực tiếp các chính sách liên quan đến vấn đề NKT.

Nhà nước Việt Nam đã thông qua và thực thi nhiều luật, chính sách, quy định và sáng kiến liên quan đến NKT, kể cả việc tiếp cận việc làm bền vững và hiệu quả, trong đó phải kể đến những văn bản chủ yếu như:

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2013; Luật người khuyết tật năm 2010; Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007 các điều 125 – 128; Luật đào tạo nghề năm 2006; Bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn về tiếp cận đối với NKT năm 2002, đưa ra những tiêu chuẩn tiếp cận cấp quốc gia; Ban điều phối quốc gia về vấn đề NKT năm 2001; Đề án trợ giúp NKT của Chính phủ giai đoạn 2006 – 2010 được phê duyệt tháng 10 năm 2006. Đề án đưa ra phương pháp tiếp cận toàn diện đối với vấn đề NKT với việc mở rộng đối tượng tham gia đề án và có sư tham gia của nhiều bộ ngành liên quan; Giáo dục hòa nhập tầm nhìn tới năm 2015. Chính phủ đặt mục tiêu thực hiện giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em khuyết tật vào năm 2015.

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí