Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Vợ Khi Vợ Chồng Lựa Chọn Chế Độ Tài Sản Theo Thỏa Thuận

chất cộng đồng của hôn nhân mà dẫn đến vợ, chồng cùng chung sức, cũng chung ý chí trong việc tạo lập khối tài sản chung. Trong thực tế cuộc sống, sự đóng góp công sức của vợ chồng vào khối tài sản chung có thể ngang nhau, do sự khác biệt từ đặc điểm về giới tính quy định, điều kiện nghề nghiệp, lao động… quyết định, thì một bên vợ, chồng cũng không thể giảm sút quyền sở hữu đối với bên còn lại. Ví dụ: Vợ làm công việc nội trợ, chồng đi làm và kiếm được 1 tỷ, thì 1 tỷ này là tài sản chung của vợ chồng chứ không phải là tài sản riêng của người chồng, mặc dù người vợ không cùng tạo ra tài sản. Vì từ xưa, ông cha ta đã có câu: "của chồng công vợ", đó là sự đúc kết qua bao đời mà cho đến thời đại ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Mọi thành công của người chồng để phản ánh sức hữu hình là hỗ trợ trực tiếp bằng vật chất, sức lao động; hoặc hỗ trợ vô hình bằng tinh thần cho người chồng đã làm thay cho người chồng các công việc như nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái và các công việc khác… để người chồng có thể toàn tâm toàn ý đi làm. Như vậy, việc quy định tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất là hoàn toàn hợp lý. Nó vừa ghi nhận vai trò của người vợ trong việc tạo lập tài sản là ngang nhau, vừa thể hiện đúng mục đích và bản chất của Luật HN&GĐ của nhà nước ta nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, vì lợi ích chung.

Điểm b khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định: "Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập" [42]. Như vậy, pháp luật đã dự liệu đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ vì phải làm công việc nhà mà không trực tiếp làm ra của cải thì quyền sở hữu vẫn ngang bằng với người chồng. Luật HN&GĐ năm 2014 tạo điều kiện cho người vợ có điều kiện phát hiện khả năng của mình là như nhau. Dù có làm chức năng nào, sản xuất hay tái sản xuất thì quyền sở hữu vẫn được đảm bảo. Vì do phân công lao động, mỗi bên vợ chồng làm các chức năng khác nhau, và lao động trong gia đình không trực tiếp tạo ra lợi tức nhưng được coi như có thu nhập. Quy định này hướng tới đối tượng là phụ nữ là chính. Bởi vì phụ

nữ thường đảm nhiệm chức năng tái sản xuất mà từ xưa đến nay thường bị coi rẻ, bị áp bức bất công, nay được nhìn nhận có vai trò to lớn ngang với người chồng. Luật HN&GĐ năm 2014 dự liệu như vậy là hướng chủ yếu đến người vợ, tuy nhiên không có nghĩa là dành đặc quyền cho họ, là bất bình đẳng mà chỉ là ghi nhận những quyền của họ đáng được hưởng từ lâu.

Bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên.

Điều 233 BLDS, Khoản 1 Điều 35 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận" [42]. Để có sự ổn định và an toàn về cơ sở vật chất trong gia đình, trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng ý chí của cả hai vợ chồng. Khoản 2 Điều 35 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau: a) Bất động sản; b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình" [42]. Người chồng không thể tự ý quyết định những tài sản mang tính quan trọng đối với gia đình mà không thỏa thuận bàn bạc với người vợ. Việc thỏa thuận này có ý nghĩa rất lớn, trước hết nó đem lại sự bình đẳng về mặt ý chí của người vợ. Bên cạnh đó nó giúp duy trì cuộc sống gia đình ấm no hạnh phúc, vì việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản làm chuyển dịch hay tăng, giảm tài sản chung hợp nhất. Những tài sản có giá trị lớn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cuộc sống gia đình hạnh phúc. Pháp luật quy định bắt buộc phải có sự thỏa thuận của vợ chồng chính là đảm bảo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng cũng như bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người phụ nữ đối với tài sản chung.

Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Pháp luật không phân biệt chức năng kinh tế do chồng hay vợ thực hiện mà đó là trách nhiệm chung của hai vợ chồng. Trong trường hợp vì lý do giới tính, sức khỏe, nghề nghiệp, mức thu nhập mà công

sức đóng gớp ít hơn thì cũng không làm giảm hoặc mất quyền sở hữu của họ đối với tái sản chung, lao động trong gia đình được tính ngang với lao động tạo ra của cải vật chất. Trong các giao dịch có đối tượng là tài sản chung thì vợ chồng bình đẳng với nhau khi tham gia giao dịch có giá trị tài sản chung lớn, tài sản chung đưa vào kinh doanh, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của hai vợ chồng.

2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận

Trong đời sống HN&GĐ hiện nay bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nhiều yếu tố. Cơ sở vững chắc để tiến đến hôn nhân của cả người nam và nữa đó là tình yêu. Khi giữa hai người còn tồn tại tình yêu thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng. Tuy nhiên, khi tình yêu không còn và vấn đề ly hôn được đặt ra trong thực tiễn đã xảy ra nhiều tranh chấp về tài sản rất khó giải quyết. Khó khăn ở đây chính là việc xác định tài sản của mỗi bên vợ và chồng khi ly hôn xảy ra. Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ ghi nhận tài sản hình thành trong quá trình hôn nhân là tài sản chung nên chưa bao trùm các vấn đề nảy sinh. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật này thì việc xác định tài sản chung và tài sản riêng không hề đơn giản. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định về việc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng. Dưới góc độ pháp luật, quyền sở hữu về tài sản của người vợ và người chồng được đảm bảo hơn thông qua việc xác lập cụ thể tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trước ngày đăng ký kết hôn. Dưới góc độ xã hội, việc thỏa thuận tài sản trước khi kết hôn dường như cũng được thừa nhận một cách rộng rãi trong đời sống của người dân. Nguyên nhân cũng có thể là do quan niệm về hôn nhân của xã hội ta: hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa hai bên. Sự liên kết này không phụ thuộc vào tính toán vật chất, mà dựa trên cơ sở tình yêu thương, bình đẳng và tự nguyện giữa vợ và chồng, với mục đích xây dựng mối quan hệ bền vững. Tuy nhiên, nhìn nhận dưới góc độ duy lý thì thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ

chồng cũng góp phần đảm bảo quyền sở hữu tài sản của cả người vợ và người chồng khi ly hôn xảy ra. Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Sau khi thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thì thỏa thuận này được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Như vậy, thông qua thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thì tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng được xác định. Trên cơ sở đó sẽ xác định được quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và các giao dịch có liên quan. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng được quy định cụ thể tại Điều 48 Luật HN&GĐ năm 2014. Với nội dung quy định như trên thì rõ ràng việc định liệu về tài sản được lập trước khi kết hôn vừa đảm bảo quyền sở hữu tài sản vợ, chồng vừa là các ứng xử công bằng và tiến bộ cho cả hai bên vợ, chồng. Có thể thấy rằng quyền sở hữu tài sản được đảm bảo một cách vững chắc thông qua chế độ thỏa thuận về tài sản trước hôn nhân. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện tại để thực thi quy định này trong thực tiễn còn có nhiều vướng mắc cần phải giải quyết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Về thời điểm xác lập chế độ tài sản của vợ chồng: Theo Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014, khi vợ chồng kết hôn mà lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này bắt buộc phải được lập trước khi kết hôn. Xét về khía cạnh quyền nhân thân, việc thiết lập chế độ tài sản theo thỏa thuận là quyền của vợ chồng thì việc xác lập vào thời điểm nào phải dựa trên ý nguyện, điều kiện cụ thể của vợ, chồng. Do vậy, nếu pháp luật chỉ giới hạn thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng phải lập trước khi kết hôn cũng chưa đảm bảo hết quyền tài sản của vợ chồng. Đặt ra trường hợp, trước khi kết hôn thì vợ chồng có rất ít tài sản nên vợ chồng không có ý định thiết lập chế độ tài sản theo thỏa thuận. Trong quá trình hôn nhân, vợ chồng được thừa kế hoặc vợ chồng tạo lập được khối tài sản khá lớn và mong muốn xác lập về chế tộ

tài sản theo thỏa thuận thì pháp luật lại không cho phép. Việc lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận không chỉ được hiểu có ý nghĩa riêng đối với vợ, chồng mà còn có ý nghĩa phân định tài sản cho người thứ ba khác ngoài vợ chồng. Nếu quy định như trên thì sẽ chưa mở rộng quyền cho vợ chồng trong việc định đoạt tài sản.

Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2014 - 9

Đối với các tài sản vợ chồng mà chưa thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng: Trong trường hợp này pháp luật lại dẫn chiếu áp dụng Điều 29, 30, 31, 32 Luật HN&GĐ năm 2014 và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định để giải quyết. Như vậy, dường như pháp luật vẫn quy định ưu tiên cho hướng áp dụng các quy định của pháp luật để phân định về tài sản của vợ chồng. Trong trường hợp tài sản chưa được thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì vẫn có thể cho phép vợ chồng tiến hành thỏa thuận mà không cần áp dụng những quy định về chế độ tài sản theo luật định để giải quyết. Trên thực tế ý chí định đoạt tài sản thỏa thuận không trái pháp luật nhiều khi không đồng nhất với việc phân định tài sản theo quy định của pháp luật.

Nội dung của thỏa thuận còn nhiều bất cập: Theo quy định của Luật HN&GĐ hiện hành và Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 cũng chỉ quy định chung về tài sản vợ chồng, nguyên tắc phân định, xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Điều 125 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cũng chỉ mới nêu được thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng có thể lựa chọn: vợ chồng có thể có tài sản chung, tài sản riêng trong quá trình hôn nhân; tài sản vợ chồng trong quá trình hôn nhân là tài sản chung toàn bộ. Như vậy, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng sau khi ly hôn thì lại căn cứ theo nguyên tắc phân chia tài sản theo luật định. Với quy định như trên thì chế độ tài sản theo thỏa thuận chưa mang lại nhiều ý nghĩa trong thực tiễn thực thi. Một vấn đề đặt ra là chế độ tài sản theo thỏa thuận cũng chưa nêu rõ quy định nếu khi vợ chồng ly hôn thì người vợ hoặc người chồng được hưởng phần tài sản nào từ tài sản chung của vợ chồng hoặc phần

tài sản nào từ tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng. Như vậy, quyền lợi của người vợ về tài sản trong những trường hợp nêu trên cũng chưa được đảm bảo một cách cụ thể. Hơn nữa, Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định chế độ ly thân nhưng thực tiễn đời sống có rất nhiều cặp vợ chồng ly thân. Vậy nếu hai vợ chồng ly thân và người vợ đảm nhiệm nuôi con thì người vợ được hưởng phần tài sản như thế nào thì chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận cũng chưa quy định cụ thể.

Tóm lại, với việc vợ chồng xác định rõ về việc sở hữu tài sản trước khi kết hôn cũng là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cả hai bên khi ly hôn xảy ra. Quy định này góp phần đảm bảo cho việc xác định rõ khối tài sản của vợ chồng và góp phần đảm bảo tốt hơn cho việc phân chia tài sản của vợ chồng sau khi li hôn. Nhìn ở khía cạnh chung, quy định về chế độ thỏa thuận tài sản của vợ chồng cũng góp phần đảm bảo quyền sở hữu tài sản cho người vợ khi phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

2.2.3. Bảo vệ quyền xác lập, chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản riêng của người phụ nữ

Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ thông qua việc xác định tài sản riêng

Luật HN&GĐ năm 2014 bên cạnh việc thừa nhận quyền sở hữu chung hợp nhất còn thừa nhận quyền có tài sản riêng của người phụ nữ. Pháp luật đã tôn trọng quyền của mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho người phụ nữ có sự độc lập nhất định về tài sản để giải quyết những công việc cá nhân. Bởi vì ngoài quan hệ gia đình thì người phụ nữ còn nhiều mối quan hệ xã hội khác không thể thiếu, đặc biệt là tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế.

Pháp luật HN&GĐ hiện hành đã tôn trọng quyền của người phụ nữ bằng việc quy định cho người phụ nữ quyền có tài sản riêng. Khoản 1 Điều 44 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong

thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng [42].

Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã xác định tài sản riêng của người phụ nữ dựa vào thời điểm phát sinh trước khi kết hôn; dựa vào sự định đoạt của người để lại di sản hoặc người tặng cho di sản; dựa vào sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Ở từng căn cứ, thì quyền của người phụ nữ được xác lập một cách khách quan, được đảm bảo ngang nhau với người chồng.

Một là, tài sản của người vợ có trước khi kết hôn. Pháp luật đã đảm bảo quyền của người vợ dựa vào bản chất của tài sản. Những tài sản có trước khi kết hôn không được tạo ra trên nguồn gốc của cuộc sống gia đình, không dựa trên tính chất của cuộc hôn nhân. Nếu vì pháp luật quy định mà gộp nó vào là tài sản chung thì đã tước đi quyền định đoạt của công dân. Luật HN&GĐ năm 2014 đã tạo điều kiện cho người phụ nữ có quyền định đoạt đối với tài sản mà xét về bản chất nó là tài sản riêng. Như vậy, các nhà làm luật đã dự liệu cho người phụ nữ có điều kiện ngang nhau phát huy hết khả năng tạo thu nhập và tài sản để làm giàu cho cá nhân và xã hội. Việc tạo ra tài sản và có thu nhập được thể hiện thông qua lao động sản xuất kinh doanh, hoặc do chuyển dịch quyền sở hữu từ chủ thể khác.

Hai là, tài sản mà người vợ được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Việc dự liệu cho người phụ nữ được hưởng ngang với người chồng từ những tài sản được tặng cho, được thừa kế là đảm đảm quyền được thừa kế tài sản của người phụ nữ. Dựa vào ý chí của người tặng cho di sản và người để lại thừa kế, thì người vợ có quyền hưởng thụ khối tài sản đó và được coi là tài sản riêng của mình.

Ba là, tài sản vợ chồng được chia trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh

từ tài sản riêng của người vợ trong thời kỳ hôn nhân. Những căn cứ xác lập quyền tài sản riêng đó đều dựa trên cơ sở khách quan đảm bảo sự bình đẳng của người vợ đối với tài sản riêng. Dựa vào những căn cứ khách quan như: sau khi chia tài sản chung; và những hoa lợi đối với tài sản riêng thì cả vợ và chồng đều được đảm bảo quyền lợi ngang nhau.

Như vậy, trong việc xác định tài sản riêng của người phụ nữ bao gồm cả căn cứ xác định, nguồn gốc tài sản thì đều được xây dựng dựa trên nguyên tắc bình đẳng vợ chồng. Xuất phát từ việc đánh giá khách quan, chính xác, đúng đắn về nỗ lực của mỗi bên, nên pháp luật quy định đảm bảo sự bình đẳng bằng việc ghi nhận vai trò của mỗi bên là ngang nhau, và dự liệu cho từng cá nhân hưởng thụ ngang nhau thành quả của sự phát triển. Các căn cứ xác định về tài sản vì thế rất khách quan; đồng thời chế độ tài sản cũng đảm bảo sự bình quyền một cách cao nhất, không phân biệt về mặt giới tính.

Bảo vệ quyền chiếm hữu sử dụng, định đoạt tài sản riêng của người

phụ nữ

Luật HN&GĐ năm 2014 thừa nhận quyền sở hữu riêng của người phụ

nữ. Trong cuộc sống gia đình, người vợ có quyền nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung để thống nhất mà không muốn phân biệt về tài sản chung, riêng. Tuy nhiên, để ổn định trong giao dịch dân sự và dễ dàng cho việc giải quyết tranh chấp, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định đối với tài sản riêng có giá trị lớn hoặc bất động sản, thì khi nhập vào khối tài sản chung, cần lập thành văn bản có chữ ký của cả hai vợ chồng. Đó là quy định xuất phát từ sự tôn trọng và đánh giá quyền của người vợ và chồng là ngang nhau.

Hơn nữa, các nhà làm luật cũng dự liệu nguyên tắc tự do sử dụng quyền của chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mỗi bên. "Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình" [42, Khoản 1 Điều 44]. Trong trường hợp người có tài sản riêng không có điều kiện trực tiếp quản lý tài sản riêng của mình do điều kiện vế sức khỏe, đi công tác xa.. có thể ủy

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 29/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí