chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Pháp luật nước ta đã cho phép áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và cho phép thực hiện việc mang thai vì mục đích nhân đạo để đảm bảo tốt nhất quyền làm mẹ của người phụ nữ.
Quyền sinh con của người phụ nữ gắn liền với quyền yêu cầu xác định một người đàn ông nào đó là cha của con mình. Tuy nhiên người mẹ của đứa trẻ chỉ được quyền yêu cầu xác định cha cho con trong những trường hợp thụ thai tự nhiên, thông thường mà không có quyền xác định cha cho con trong trường hợp sinh con nhờ áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bởi vì trước khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản người mẹ đã tự nguyện tuân thủ nguyên tắc bí mật về thông tin của người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ và cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân, trong trường hợp mang thai vì mục đích nhân đạo và những người này luôn luôn được xác định là cha, mẹ của đứa trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Khoản 3 Điều 93 Luật HN&GĐ quy định: "Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha mẹ và giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra" [42].
Để đảm bảo lợi ích của đứa trẻ sinh ra do áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cũng như tránh các hậu quả trong việc lặp lại giống nòi ở thế hệ sau, pháp luật quy định rõ ràng là tinh trùng, noãn, phôi của người cho chỉ được sử dụng cho một người. Quy định đó vẫn đảm bảo bí mật các thông tin về bản thân người cho tinh trùng, noãn, người cho phôi nhưng lại đòi hỏi phải xác định một địa chỉ rõ ràng đối với người nhận tinh trùng, người nhận noãn, người nhận phôi. Điều đó có nghĩa là tinh trùng, noãn, phôi của người cho đã được
sử dụng cho người này thì không sử dụng cho bất cứ một người nào khác. Điều đó đòi hỏi các cơ sở y tế có khả năng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải có trách nhiệm, thận trọng và quản lý tốt việc lưu giữ, bảo quản tinh trùng, phôi đó chỉ cho một người duy nhất mà thôi. Ngược lại, về phía người nhận tinh trùng, người nhận noãn và người nhận phôi thì lại có thể nhận từ nhiều người khác nhau. Bởi vì, người nhận luôn luôn xác định cụ thể, đó là người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân. Vì vậy, người mẹ của đứa trẻ luôn luôn xác định được trong mọi trường hợp.
Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ khi ly hôn
Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ khi hạn chế quyền yêu cầu li hôn của người chồng.
Người phụ nữ được gắn liền với thiên chức làm mẹ hay quyền làm mẹ. Quyền làm mẹ của người phụ nữ cần phải được ghi nhận và bảo vệ không chỉ dưới góc độ xã hội mà còn dưới góc độ pháp luật. Dưới góc độ xã hội, quyền làm mẹ là quyền nhân thân gắn liền với phụ nữ, gắn liền với người vợ. Quyền làm mẹ là quyền được sinh con, được có con (trong trường hợp nhận con nuôi), được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người mẹ. Dưới góc độ pháp luật, quyền làm mẹ cũng cần được bảo vệ thông qua các quy định của pháp luật. Trong trường hợp ly hôn, quyền làm mẹ của người phụ nữ cũng phải được ghi nhận và bảo vệ. Mang thai và sinh con là quá trình người phụ nữ phải chịu bao vất vả, và đứa con chính là sự gắn bó máu thịt với người mẹ. Do vậy, pháp luật cần phải bảo vệ người mẹ khi li hôn thông qua việc hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong những trường hợp nhất định.
Thực tế, người phụ nữ khi mang thai cần phải đảm bảo tốt với sức khỏe cũng như tinh thần để sinh con khỏe mạnh. Ly hôn thường để lại cho người phụ nữ gánh nặng về mặt tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ nữ, làm cho họ không đảm bảo "sức khỏe sinh sản" để mang thai và làm mẹ an toàn. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ
thể: "Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi" [42, Khoản 3 Điều 51]. Với quy định trên, quyền làm mẹ của người vợ đã được đảm bảo một cách vững chắc hơn. Theo đó, trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc sinh con thì người chồng không được quyền ly hôn. Trong thời kỳ mang thai, người phụ nữ rất cần sự chăm sóc của người thân bên cạnh mình, đặc biệt người chồng là người gần gũi nhất với người vợ. Do vậy, nếu khi người vợ đang mang thai mà người chồng yêu cầu ly hôn thì sẽ tác động rất lớn đến người vợ. Tác động này được nhìn nhận dưới tác động vật chất và tác động về tinh thần. Nếu người chồng ly hôn thì người vợ sẽ bị ảnh hưởng xấu đến tinh thần, tình cảm không chỉ đối với bản thân người vợ mà còn đối với cả đứa trẻ chưa sinh. Thêm vào đó, người vợ cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ về vật chất từ người chồng trong thời điểm này là một thiệt thòi rất lớn. Điều này sẽ làm ảnh hưởng xấu đến cả người vợ khi mang thai và ảnh hưởng xấu đến thai nhi. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ chưa dự liệu hết được trường hợp nếu người chồng biết rõ người vợ đang mang thai mà thai nhi không phải con mình thì người chồng có hay không quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ có thai hoặc sinh con?. Nếu theo cách hiểu của ngôn ngữ văn bản pháp luật thì trong trường hợp này người chồng cũng không được quyền yêu cầu ly hôn. Trên thực tế, pháp luật cũng không dự liệu được hết tất cả các trường hợp nảy sinh trên thực tế cuộc sống. Nhưng đứng dưới góc độ pháp luật hay đạo đức xã hội thì cần quy định để bảo vệ người phụ nữ trong thời kỳ có thai và nuôi con nhỏ. Do vậy, đối với vấn đề này pháp luật cũng cần được cụ thể hóa thông qua các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật HN&GĐ năm 2014.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Bảo Vệ Quyền Của Phụ Nữ Bằng Pháp Luật
- Bảo Vệ Quyền Lợi Của Phụ Nữ Việt Nam Trong Quan Hệ Nhân Thân
- Bảo Vệ Quyền Bình Đẳng Của Người Phụ Nữ Trong Quan Hệ Hôn Nhân.
- Bảo Vệ Quyền Tự Do Li Hôn Của Người Vợ
- Bảo Vệ Quyền Lợi Của Phụ Nữ Việt Nam Trong Quan Hệ Tài Sản
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Vợ Khi Vợ Chồng Lựa Chọn Chế Độ Tài Sản Theo Thỏa Thuận
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng ghi nhận việc người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi dù cho đó là con đẻ của các hai vợ chồng hoặc là con nuôi của hai vợ chồng. Quy định này cũng nhằm đảm bảo cho người mẹ được ổn định trong
việc nuôi con nhỏ, đảm bảo quyền làm mẹ khi được nuôi con nhỏ. Nhưng nếu đặt ra vấn đề người vợ đang nuôi con nuôi mà do người chồng hoặc người vợ nhận nuôi riêng thì người chồng có yêu cầu xin ly hôn hay không? Theo ngôn ngữ thể hiện thì không có sự phân biệt người vợ nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi là nuôi con nuôi hay là con đẻ. Vấn đề này thiết nghĩ cũng cần phải có sự hướng dẫn bằng văn bản cụ thể.
Ngoài ra, nhiều trường hợp cụ thể mà pháp luật HN&GĐ cũng chưa bao quát hết được. Ví dụ, trường hợp người vợ có thai nhưng do người vợ nhận mang thai hộ người khác vì mục đích nhân đạo hoặc người vợ không có khả năng sinh con và đang thực hiện việc nhờ người khác mang thai hộ theo đúng quy định của pháp luật thì người chồng có quyền yêu cầu ly hôn hay không? Hoặc việc người chồng biết rõ là người vợ đang mang thai là con của người khác thì người chồng có quyền yêu cầu ly hôn hay không? Theo quan điểm của người viết thì vẫn không nên cho phép người chồng có quyền yêu cầu ly hôn trong những trường hợp này. Mặc dù con không phải của người chồng nhưng nếu trong trường hợp người vợ mang thai thì người chồng cũng nên quan tâm, chăm sóc người vợ vì nghĩa vụ của vợ chồng là yêu thương chăm sóc nhau. Trong trường hợp này, nếu người chồng ly hôn thì có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của người vợ.
Tóm lại, pháp luật HN&GĐ hiện hành đã có những quy định cụ thể bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ thông qua việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng trong một số trường hợp nhất định. Với quy định như vậy thì quyền làm mẹ đã được pháp luật bảo vệ một cách thiết thực. Tuy nhiên, trong những trường hợp đã nêu cũng cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể để thuận tiễn trong việc thực thi pháp luật
Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ khi xem xét các trường hợp ly hôn và căn cứ ly hôn
Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ khi ly hôn còn được pháp luật HN&GĐ ghi nhận và bảo vệ thông qua việc xem xét các trường hợp ly hôn.
Để xem xét đánh giá cụ thể những trường hợp này, luận văn đi sâu phân tích một số khía cạnh cụ thể để làm rõ hơn quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ trong các trường hợp ly hôn.
Pháp luật cần phải xem xét việc bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ trong những trường hợp thuận tình ly hôn.
Có thể thấy, các quy định của pháp luật HN&GĐ về việc thuận tình ly hôn cũng đã hướng tới việc đảm bảo quyền làm mẹ của người vợ bằng việc quy định "chỉ cho phép vợ chồng đồng thuận ly hôn khi đảm bảo được quyền lợi chính đáng của người vợ và con". Theo quy định của pháp luật, người vợ và người chồng cùng thuận tình lý hôn là thể hiện ý chí, ý nguyện của các bên về việc giải quyết mối quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng. Khi bản thân hai vợ chồng xét thấy cuộc sống gia đình không hạnh phúc, cuộc sống chung có nhiều khúc mắc, không đạt được mục đích của cuộc sống hôn nhân và họ tự nhận thức được việc ly hôn là cần thiết thì hai vợ chồng cũng đồng nhau yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Trong yêu cầu ly hôn này, cả vợ và chồng đều thống nhất và đồng thuận trong việc giải quyết các hậu quả của việc ly hôn: hai bên phân chia tài sản rõ ràng, không có khúc mắc gì; hai bên cùng nhau thỏa thuận đầy đủ về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Với những điều kiện đặt ra như trên thì thật sự có sự đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ và con thì Tòa án nhất trí giải quyết cho vợ chồng ly hôn. Tuy nhiên, pháp luật lại quy định chặt chẽ hơn, nếu trong trường hợp những vấn đề nêu trên mà không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ, người con thì Tòa sẽ xem xét, giải quyết.
Căn cứ ly hôn trong trường hợp này đó là dựa trên sự tự nguyện ly hôn và sự thỏa thuận được giữa vợ và chồng về các hậu quả phát sinh trong và sau ly hôn. Căn cứ này được quy định cụ thể căn cứ vào Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014:
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận việc chia tài
sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn [42].
Với việc quy định như trên cũng đặt ra một số vấn đề cần lưu ý sau: Thế nào là bảo đảm quyền lợi chính đáng của người vợ và con thì điều luật này vẫn chưa đề cập tới. Do vậy, vấn đề này phụ thuộc nhiều vào nhận định từ phía Tòa án. Như vậy sẽ thiếu tính khách quan từ phía Tòa án trong những trường hợp vụ án HN&GĐ cụ thể. Một vấn đề nữa, pháp luật quy định nếu không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ và con thì Tòa án xem xét giải quyết. Vậy, Tòa án xem xét giải quyết như thế nào, Tòa án có xử lý cho ly hôn hay không cho ly hôn, pháp luật lại không có quy định rõ ràng, cụ thể.
Với những phân tích như trên, cần phải có quy định bổ sung, hướng dẫn cụ thể quy định này để đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người vợ trong vấn đề giải quyết thuận tình ly hôn.
Phải xem xét việc bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ trong trường hợp ly hôn xuất phát từ một bên vợ hoặc bên chồng
Đối với yêu cầu ly hôn xuất phát từ một bên thì pháp luật về HN&GĐ hiện hành có quy định cụ thể hơn và cũng đảm bảo quyền lợi của người vợ trong trường hợp này. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định cụ thể hơn trong trường hợp ly hôn do yêu cầu của một bên.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ thì khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà Tòa không hòa giải thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu xét thấy có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng đến quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Thêm nữa, để đảm bảo quyền lợi của người vợ hơn nữa thì trong trường hợp người chồng vắng nhà trong thời gian dài, biệt tích nhiều năm hoặc không còn tin tức của người chồng sau khi gặp các tai nạn hoặc thảm họa thiên nhiên thì theo quy định của pháp luật, Tòa án sẽ tuyên bố người chồng mất tích. Trong trường hợp này, pháp luật cho phép người vợ được quyền ly hôn để đảm bảo quyền và lợi ích cho người vợ. Khi người chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích mà người vợ yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn. Điều này đảm bảo quyền nhân thân của người vợ như việc tham gia quan hệ kết hôn mới… hoặc cũng đảm bảo cho việc quản lý tài sản của người chồng để đảm bảo cho cuộc sống gia đình, phát triển kinh tế.
Ngoài ra, trong trường hợp người vợ sống trong gia đình mà người chồng có hành vi bạo lực gia đình, đánh đập vợ con, gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người vợ thì pháp luật quy định cho người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn. Trên thực tế có nhiều trường hợp người vợ phải chịu sự đánh đập, những đòn roi của người chồng. Pháp luật trước đây không có quy định này nên nhiều trường hợp bạo lực gia đình đã xảy ra mà chính quyền địa phương không giải quyết được và người vợ vì nhiều lý do mà không thực hiện quyền yêu cầu ly hôn.
Tóm lại, những trường hợp nêu trên khi mà người vợ hoặc người chồng thực hiện quyền yêu cầu ly hôn thì quyền làm mẹ của người vợ vẫn được đảm bảo thực hiện thông qua các quy định của pháp luật. Theo quy định, người mẹ vẫn được đảm bảo, quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục con cái. Trong một số trường hợp, pháp luật còn đảm bảo quyền ưu tiên dành quyền nuôi con cho người vợ khi con dưới 36 tháng tuổi. Như vậy, quyền làm mẹ của người vợ phần nào đã được pháp luật tôn trọng và bảo vệ rất cụ thể.
Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ trong trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu giải quyết việc ly hôn theo Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Khi xảy ra trường hợp này, theo pháp luật dự liệu người vợ bị tâm thần hoặc bị bệnh khác mà dẫn đến tình trạng mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi và đồng thời bị chồng bạo hành gia đình thì lúc đó cha, mẹ, người thân thích khác sẽ yêu cầu ly hầu để đảm bảo quyền lợi cho người vợ. Quyền làm mẹ của người vợ trong trường hợp này xét về mặt pháp luật thì vẫn được đảm bảo. Xét về khía cạnh pháp luật, người vợ vẫn có đầy đủ quyền làm mẹ, có đầy đủ quyền được chăm sóc con, nuôi dưỡng, thăm nom con. Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn, người vợ không thể tự mình thực hiện những hoạt động trên. Pháp luật quy định cho phép cha mẹ, người thân thích khác được quyền yêu cầu ly hôn nhưng sau khi ly hôn thì hậu quả được xử lý thế nào thì pháp luật chưa có quy định cụ thể. Bởi vấn đề đặt ra là chưa có quy định cụ thể ai là người đại diện hoặc ai là người giám hộ của người vợ sau khi ly hôn trong trường hợp này? Do đó sẽ dẫn đến câu hỏi ai sẽ là người chăm sóc người vợ, quản lý tài sản của người vợ sau khi ly hôn, ai sẽ là người thay mặt người vợ chăm sóc con cái của họ, đảm bảo quyền làm mẹ cho người vợ sau khi ly hôn? Vấn đề này pháp luật còn chưa có quy định cụ thể. Bởi lẽ trong trường hợp này có vấn đề đặt ra là ai sẽ là người giám hộ cho người vợ? Có thể là cha, mẹ đẻ của người vợ, có thể là cha, mẹ nuôi của người vợ; cô, di, chú bác của người vợ, hoặc các con đã thành niên của người vợ… Theo quan điểm của người viết, pháp luật mới chỉ dừng lại ở câu chuyện là quy định cho cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn trong trường hợp trên để đảm bảo quyền lợi cho người vợ nhưng lại chưa có quy định cụ thể để đảm bảo cho người vợ như thế nào về quản lý tài sản, về quyền làm mẹ; quyền chăm sóc con của người vợ; quyền của người mẹ nhận được sự chăm sóc từ các con. Do vậy, để hoàn thiện hơn nữa quy định này thì cần phải bổ sung thêm nhiều quy định cụ thể hơn.