hội được tiếp cận với các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe thông qua những giải pháp mở rộng cả về phạm vi và chất lượng các dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, các dịch vụ về tư vấn, xét nghiệm HIV được nâng cao cả về vật chất và đội ngũ cán bộ. Việc điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV được mở rộng cả về phạm vi cung cấp, tính liên tục, tính sẵn có và dễ tiếp cận.
Đặc biệt trong nhóm giải pháp về pháp luật và chế độ chính sách coi trọng việc chống kỳ thị, phân biệt đối xử và bảo đảm quyền bình đẳng giới đối với người nhiễm HIV khi tiếp cận các dịch vụ xã hội.
Đặc biệt, các hoạt động hỗ trợ vật chất, tinh thần cho người nhiễm HIV và gia đình họ sẽ được đẩy mạnh để họ có thể ổn định cuộc sống và hòa nhập với cộng đồng.
2.1.2 Hạn chế của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn tồn tại một số mâu thuẫn, chồng chéo gây khó khăn cho việc thực hiện các quyền của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ có HIV/AIDS.
Theo hướng dẫn số 3 của Liên hợp quốc trong các Hướng dẫn về HIV/AIDS và quyền con người về việc thông báo tình trạng có HIV với vợ hoặc chồng của người có kết quả xét nghiệm dương tính với HIV, theo hướng dẫn này việc thông báo này là không bắt buộc và trong từng trường hợp có quyết định về chuyên môn nên hay không nên cho bạn tình của người đó biết về tình trạng HIV của người đó, quyết định đó cần phù hợp với các tiêu chí như người nhiễm HIV phải được trao đổi ý kiến về vấn đề này, việc trao đổi ý kiến về việc nên có sự thay đổi hành vi phù hợp với người nhiễm HIV không đạt được hiệu quả, nguy cơ lây truyền sang bạn tình của người đó. Trong khi đó theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Luật phòng, chống HIV/AIDS và Thông tư số 01/2010/TT-BYT ngày 06/01/2010 của Bộ Y tế quy định trách nhiệm, trình tự thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính thì việc thông báo tình trạng nhiễm HIV của mình cho chồng hoặc vợ là nghĩa vụ của người nhiễm HIV và trong trường hợp không thông báo người đó có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Các cơ quan có thẩm quyền cũng có quyền thông báo về tình trạng nhiễm HIV của người có kết quả xét nghiệm HIV dương tính với
vợ/chồng của người đó mà không xem xét đến các yếu tố được quy định tại Hướng dẫn về HIV/AIDS và quyền con người. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, sẽ có nhiều trường hợp việc thông báo mà không xem xét đến các yếu tố như trong hướng dẫn số 8 nêu trên gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người có HIV đặc biệt là người phụ nữ.
Theo quy định tại Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học, theo đó người có HIV/AIDS sẽ không được sử dụng các dịch vụ về điều trị vô sinh như thụ tinh trong ống nghiệm. Điều này sẽ làm như vậy sẽ hạn chế quyền được sinh con của những phụ nữ có HIV/AIDS hoặc có chồng nhiễm HIV/AIDS và tăng nguy cơ nhiễm HIV ở những cặp vợ chồng mà một hoặc cả hai người đều nhiễm HIV cũng như con của họ.
Có những mâu thuẫn liên quan đến việc hỗ trợ cho các biện pháp can thiệp giảm hại giữa Luật phòng chống HIV/AIDS năm 2006 và Pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003, theo pháp lệnh người bán dâm sẽ bị giam giam giữ hành chính tại trung tâm 05, thời gian giam giữ có thể đến 2 năm, do vậy đây là một rào cản đối với việc cung cấp các dịch vụ về chăm sóc, điều trị cho những phụ nữ mại dâm nhiễm HIV. Mặt khác, việc giam giữ hành chính như vậy là chưa phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế trong việc đảm bảo các quyền về an ninh cá nhân quy định tại điều 9 ICCPR. Theo bình luận chung số 8 về quyền tự do và an ninh cá nhân: “không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ” áp dụng cho tất cả những người bị tước tự do kể cả trong các trường hợp phạm tội hay các trường hơp khác như tâm thần, nghiện ma túy, bị tước tự do vì mục đích giáo dục và việc giam giữ đó phải được giám sát bởi một tòa án về tính hợp pháp của việc giam giữ và thời hạn giam giữ mà Ủy ban nhân quyền khuyến cáo là nên “càng ngắn càng tốt”. Tình trạng này sẽ được cải thiện trong tương lai, vì Luật xử phạt vi phạm hành chính (sẽ có hiệu lực vào tháng 7/2013), sẽ loại bỏ biện pháp giam, giữ hành chính như là một hình thức xử phạt đối với phụ nữ mại dâm. Việc loại bỏ này góp phần bảo đảm tốt hơn vi phạm quyền về an ninh cá nhân của phụ nữ và tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe đối với các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có HIV/AIDS.
Hiện nay, Việt Nam chưa có các quy định của pháp luật liên quan đến quyền lợi của những người đồng tính, người chuyển giới, người song tính.
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền Được Kết Hôn, Lập Gia Đình Và Bảo Vệ Gia Đình
- Quyền Được Tham Gia Vào Đời Sống Văn Hóa, Chính Trị
- Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Của Phụ Nữ Trong Bối Cảnh Hiv/aids Trong Lĩnh Vực Giáo Dục
- Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 10
- Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Chưa có văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự, mặc dù các tổ chức này có vai trò ngày càng quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về HIV/AIDS và có những hoạt động thiết thực nhằm hạn chế tác động tiêu cực của HIV/AIDS đối với cuộc sống của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS và đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam.
Theo quy định tại Quyết định số 96/2007/QĐ-TTg ngày 28/06/2007 cho phép cung cấp các dịch vụ dự phòng và điều trị, chăm sóc HIV tại các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam trong khi theo Nghị định 108/2007NĐ-CP ngày 26/6/2007 hướng dẫn thực hiện Luật phòng chống HIV/AIDS, việc cung cấp các liệu pháp điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế không được thực hiện tại những cơ sở này, quy định này làm hạn chế việc tiếp cận với việc điều trị bằng thuốc thay thế cho những phụ nữ tiêm chích ma túy trong những trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở chữa bệnh, trại tạm giữ, trại tạm giam.
2.2 Thực trạng bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam
2.2.1 Thành tựu trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam
Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, làm hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV đối với phụ nữ và tác động tiêu cực của HIV/AIDS đến đời sống của họ.
2.2.1.1 Sự phối hợp của các cơ quan trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Trên cơ sở thực hiện Chương trình quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 và tiếp theo là Chương trình quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 huy động được
sự tham gia đông đảo của các cơ quan từ trung ương đến địa phương cũng như sự phối hợp của các cơ quan này trong công tác phòng chống HIV/AIDS góp phần bảo đảm và thực hiện các quyền con người của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS: Ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động đến mọi mặt của đời sống phụ nữ có HIV do vậy đòi hỏi phải có sự phối hợp đa ngành trong công tác phòng, chống HIV để cùng hợp tác với các tổ chức quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức quốc tế đảm bảo cung cấp các dịch vụ dự phòng, điều trị, chăm sóc người có HIV cũng như thay đổi nhận thức của cộng đồng về HIV.
Đặc biệt phải kể đến sự phối hợp của Bộ Y tế với các bộ, ban, ngành để phổ biến các nội dung tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS, kiểm tra công tác triển khai hoạt động phòng, chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn xã hội tại các tỉnh, thành phố.
Sự phối hợp của Bộ kế hoạch và Đầu tư với Bộ Tài chính trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác phòng, chống HIV trong ngành. Hai Bộ cũng phối hợp trong việc thẩm định và trình Thủ tướng, trình Quốc hội chương trình, mục tiêu quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Y tế triển khai dịch vụ chăm sóc, điều trị ARV cho các đối tượng nhiễm HIV tại trại giam, trung tâm giáo dục, lao động xã hội.
Bộ Giáo dục vào Đào tạo góp phần quan trọng trong hoạt động giáo dục dự phòng lây nhiễm HIV trong các cơ sở đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, giảm kỳ thị, phân biệt đối xử với HIV/AIDS trong ngành giáo dục.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du dịch phối hợp với Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo mô hình “Toàn dân tham gia phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư”.
Ngoài ra còn phải kể đến hoạt động có hiệu quả của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên trong việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và trợ giúp đối với phụ nữ có HIV/AIDS và gia đình của họ.
2.2.1.2 Chương trình thông tin, giáo dục và truyền thông và truyền thông thay đổi hành vi
Được thực hiện có tính phối hợp đa ngành và dưới nhiều hình thức khác nhau ở tất cả các cấp trong toàn quốc đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các quyền liên quan đến giáo dục, không phân biệt đối xử với phụ nữ nhiễm HIV/AIDS.
Nội dung cơ bản của chương trình là tư vấn, tuyên truyền, giáo dục trong các nhóm có nguy cơ cao và cộng đồng dân cư nhằm nâng cao nhận thức của các nhóm đối tượng về HIV/AIDS. Nội dung tư vấn, tuyên truyền liên quan đến đặc điểm dịch tễ của HIV/AIDS, cơ chế lây truyền, biện pháp phòng tránh và về quyền, nghĩa vụ của người có HIV/AIDS để làm thay đổi thái độ, hành vi của cộng đồng đối với người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ nói riêng.
Thành công của chương trình này là lôi kéo được sự tham gia của đông đảo các thành phần trong xã hội. Theo Cục phòng chống HIV/AIDS đến cuối năm 2011, đã có 3.875 đồng đẳng viên tiêm chích ma túy, 2.278 đồng đẳng viên là phụ nữ mại dâm, 145 đồng đẳng viên là nam tình dục đồng giới và 11.782 cộng tác viên tham gia vào chương trình phòng chống HIV/AIDS [3]. Đây là lực lượng quan trọng góp phần thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng đối với những người có HIV nói chung và phụ nữ có HIV nói riêng vì đây là lực lượng tự nguyện, họ là những người cùng cảnh ngộ (không ít người trong số họ là người có HIV/AIDS), có chuyên môn nên dễ dàng đồng cảm đối với những người có HIV và chia sẻ kinh nghiệm của mình với người được tư vấn.
Chương trình này đã đạt được những kết quả nhất định. Theo thống kê của một tổ chức quốc tế trong giai đoạn năm 2010-2011 có 51,5 % phụ nữ trong độ tuổi từ 15-24 đã xác định chính xác con đường lây nhiễm HIV và loại bỏ các quan niệm sai lầm về HIV, tỷ lệ này cao hơn so với cuộc điều tra năm 2009 là 40,8% [3].
2.2.1.3 Chương trình khuyến khích sử dụng bao cao su:
Được thực hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đến năm 2011, đã có 28,7 triệu bao cao su được phân phát [3].
Quan hệ tình dục an toàn là một trong những biện pháp ngăn ngừa sự lây
truyền HIV. Đặc biệt đối với phụ nữ, nguy cơ lây nhiễm HIV qua con đường quan hệ tình dục cao hơn 2-4 lần so với nam giới thì đây là một chương trình có vai trò quan trọng trong việc hạn chế lây nhiễm HIV đối với phụ nữ, đặc biệt là những phụ nữ có nguy cơ cao như phụ nữ mại dâm.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lên kế hoạch đến năm 2015, có 80% khách sạn, nhà nghỉ sẽ có sẵn bao cao su [3]. Theo số liệu thống kê năm 2011, của Cục phòng chống HIV/AIDS thì trong 12 tỉnh, thành được khảo sát có 61% phụ nữ bán dâm cho biết họ nhận được bao cao su miễn phí trong 01 tháng qua [3]. Nghiên cứu điều tra 1.799 gái mại dâm tại 5 tỉnh miền Nam (Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang và Kiên Giang) của Dự án Ngân hàng thế giới năm 2008 cho thấy tỷ lệ cao với 94% số gái mại dâm cho biết đã sử dụng bao cao su với khách làng chơi trong lần quan hệ tình dục gần nhất [23]. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghiện chích ma túy cho biết tỷ lệ sử dụng bao cao su trong lần quan hệ gần nhất với bạn tình chỉ đạt 56,8% (tăng 1,6 lần so với năm 2006 (36,4%)) [23]. Các số liệu trên cho thấy, mặc dù có sự gia tăng trong việc sử dụng biện pháp an toàn trong quan hệ tình dục ở các nhóm có nguy cơ cao lây nhiễm HIV nhưng tỷ lệ này vẫn chưa đạt được chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 tầm nhìn 2020, và tỷ lệ nam tiêm chích ma túy sử dụng bao cao su khi quan hệ với bạn tình còn thấp, dẫn đến nhóm phụ nữ lây nhiễm HIV do quan hệ tình dục với chồng và bạn tình có xu hướng tăng.
2.2.1.4 Chương trình bơm kim tiêm
Với sự hỗ trợ ở một loạt các cấp hành chính và sử dụng các cơ cấu dịch vụ y tế về tuyển dụng các tuyên truyền viên đồng đẳng, chương trình trao đổi bơm kim tiêm được thực hiện thí điểm tại 35 tỉnh, thành phố với sự tài trợ của ngân hàng thế giới/DFID và AusAID, Ban phòng chống HIV/AIDS các tỉnh và Ủy ban nhân dân các tỉnh đã thành lập nhóm làm việc ở cấp huyện cùng tập hợp các nhân viên y tế, công an, đại diện Sở Lao động, Thương binh và Xã hội và các thành viên của Hội phụ nữ, Đoàn thành niên để hỗ trợ việc thực hiện chương trình trao đổi bơm kim tiêm.
Phân phát bơm kim tiêm được duy trì ở mức khoảng 30 triệu chiếc năm 2011
[3] và mở rộng tiếp cận thông qua hiệu thuốc cộng đồng và hộp tự phục vụ tại các trạm y tế và các điểm nóng trong cộng đồng. Mục đích của chương trình này là nhằm cung cấp bơm kim tiêm sạch cho các nhóm tiêm chích ma túy, nhằm hạn chế sự lây nhiễm HIV qua con đường tiêm chích ma túy. Chương trình này đã góp phần giảm tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy từ 28,6% vào năm 2004 xuống còn 17,24% vào năm 2010 [23].
2.2.1.5 Chương trình điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone
Trong khuôn khổ pháp lý của Luật phòng chống HIV/AIDS, Nghị định 108/2007/NĐ-CP và Quyết định số 5073/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế về chương trình thử nghiệm điều trị duy trì methadone quốc gia, bắt đầu ở Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 5 năm 2008. Theo kế hoạch lộ trình mở rộng chương trình điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế giai đoạn 2010-2012 sẽ triển khai tại 13 tỉnh, điều trị cho khoảng 15.600 người nghiện chích ma túy [3]. Giai đoạn 2013-2015 triển khai thêm ít nhất 17 tỉnh và điều trị cho khoảng 80.000 người nghiện chích ma túy [3]. Tính đến hết tháng 12/2011, đã có 11 tỉnh, thành phố triển khai chương trình với tổng số 41 cơ sở điều trị methadone đang hoạt động và điều trị cho 6.931 bệnh nhân [3].
Đánh giá sau 4 năm thực hiện điều trị methadone đưa ra những bằng chứng hiệu quả: Kết quả nghiên cứu tỷ lệ bệnh nhân sử dụng ma túy giảm đáng kể, chỉ còn 14% sau 24 tháng điều trị [3]. Tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm giảm từ 80% xuống còn 15% sau 12 tháng điều trị [3]. Không có bệnh nhân tử vong do tác dụng của thuốc gây ra. Đối với tác động tích cực về an ninh xã hội, đã cải thiện đáng kể về trật tự an toàn xã hội ở khu vực có người điều trị. Các mâu thuẫn trong gia đình giảm rò rệt khi bệnh nhân tham gia điều trị (từ 20% xuống còn 3,5% sau 9 tháng điều trị) [3]. Đối với tác động kinh tế, giảm chi phí đáng kể đối với gia đình có người nghiện ma túy, người nghiện không mất tiền mua ma túy, không còn ám ảnh tìm kiếm ma túy, không phải chịu các triệu chứng đói thuốc nên nhiều người đã tập
trung âm trí làm việc, do đó tỷ lệ bệnh nhân điều trị methadone có việc làm đã gia tăng. Đối với công tác dự phòng lây nhiễm HIV, đã làm giảm sự lây truyền HIV và các bệnh lây truyền qua đường máu như viêm gan B, C, tỷ lệ nhiễm mới HIV là 0,5% [3]. Có thể nói chương trình điều trị methadone đã có tác động tích cực cho người nghiện, gia đình của họ, chương trình đã giúp cho người nghiện mà túy sớm hòa nhập cộng đồng, mang lại hạnh phúc cho gia đình, sự bình yên cho cộng đồng. Chính nhờ hiệu quả như vậy, trong thời gian vừa qua hàng loạt các tỉnh đã nghiên cứu và đề xuất áp dụng mô hình này.
2.2.1.6 Chương trình dự phòng lây truyền từ mẹ sang con
Vào cuối năm 2011, dịch vụ PLTMC đã có mặt tại 226 điểm, trong đó có 133 điểm cung cấp các dịch vụ toàn diện, bao gồm cả ARV cho phụ nữ và trẻ em, tăng hơn so với năm 2009 là 223 điểm [3]. Theo Bộ Y tế, phạm vi bao phủ trên nhóm “phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV và biết kết quả của họ” và “phụ nữ mang thai nhiễm HIV dương tính được nhận thuốc ARV dự phòng cho PLTMC” tăng tương ứng từ 480.814 người (tương ứng 21% tất cả phụ nữ mang thai) và 1372 người (tương ứng 32,3% phụ nữ mang thai nhiễm HIV nhận được thuốc ARV) năm 2009 lên 846.521 người (tương ứng 36,7%) và 1733 người (tương ứng 44,1%) trong năm 2011 [3]. Khảo sát của Tổng cục thống kê khẳng định 28,6% phụ nữ sinh con trong năm 2010 và 2011 đã được xét nghiệm HIV và nhận được kết quả [3].
Độ bao phủ toàn diện của việc xét nghiệm trước khi sinh là một điều kiện tiên quyết để loại bỏ lây truyền HIV từ mẹ sang con. Do vậy, đây đang là một chương trình được xây dựng tiến tới việc đưa PLTMC trở thành một phần của chăm sóc tiền sản được thực hiện theo các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em mà không chỉ dừng lại ở chương trình can thiệp lây truyền HIV từ mẹ sang con. Đến nay, cơ sở hạ tầng và năng lực y tế cơ bản mạnh mẽ của Việt Nam được thể hiện ở việc cung cấp ít nhất một lần chăm sóc tiền sản cho 95% phụ nữ mang thai và thành công đáng kể trong việc giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh đã đem lại cơ sở vững chắc để loại bỏ LTMC.