Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Của Phụ Nữ Trong Bối Cảnh Hiv/aids Trong Lĩnh Vực Giáo Dục

nhằm khuyến khích, hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh dạy nghề và sử dụng lao động là người sau cai và người nhiễm HIV.

Để thúc đẩy các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc bảo đảm các quyền của người lao động có HIV/AIDS đặc biệt là lao động nữ tại nghị định số 122/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011, sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo đó thu nhập từ hoạt động dạy nghề cho người nhiễm HIV/AIDS được miễn thuế, các khoản chi cho công tác phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc (bao gồm cả đào tạo nhân viên, các hoạt động truyền thông về phòng, chống HIV, phí tư vấn, xét nghiệm, và các khoản hỗ trợ tài chính cho người lao động có HIV) sẽ được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm dịch tễ học của HIV/AIDS, đối với một số nghề, công việc người nhiễm HIV/AIDS không được làm được quy định tại Thông tư số 29/2000/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 28/12/2000. Theo đó người lao động khi làm những công việc này, khi phát hiện mình có HIV/AIDS phải có trách nhiệm thông báo cho người sử dụng lao động và tự nguyện chuyển sang làm công việc khác và thực hiện các biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV. Người sử dụng lao động trong các ngành nghề này, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến những quy định này và không được bắt buộc người lao động phải xét nghiệm HIV/AIDS, không được cho thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, không được có hành vi phân biệt đối xử với người lao động có HIV/AIDS, phải bố trí công việc khác phù hợp hoặc đào tạo lại nghề cho người lao động và đảm bảo các quyền lợi về tiền lương, bảo hiểm xã hội và chế độ chính sách khác cho người lao động.

Tại điều 40 Luật bình đẳng giới cũng xác định những hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực việc làm như áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng, từ chối tuyển dụng hoặc không áp dụng các quy định riêng đối với lao động nữ.

Bên cạnh các quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sử dụng lao động

nêu trên, cần có cơ chế đảm bảo cho việc thực thi các nghĩa vụ đó người sử dụng lao động. Trong trường hợp người lao động vi phạm các quy định của pháp luật cần có cơ sở pháp luật để xử lý vi phạm nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm các quyền của người lao động có HIV/AIDS do đó ngày 08/08/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2011/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và phòng chống HIV/AIDS đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo thi hành các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền của người lao động có HIV/AIDS. Theo quy định tại điều 18, điều 22, điều 23 của Nghị định này thì người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính trong những trường hợp vi phạm các quy định liên quan đến việc phổ biến, truyền thông kiến thức, biện pháp phòng, chống HIV, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người lao động có HIV/AIDS và các quy định liên quan đến tuyển dụng lao động, chấm dứt hợp đồng lao động, tăng lương, đề bạt người lao động có HIV/AIDS.

Như vậy, trong bối cảnh HIV/AIDS, các quyền về lao động, việc làm của phụ nữ được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực thi theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử về bất kỳ yếu tố nào.

2.1.1.2 Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS trong lĩnh vực giáo dục

Trong lĩnh vực giáo dục, bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS thể hiện ở ba khía cạnh đó là: Bảo đảm quyền được học tập của phụ nữ có HIV/AIDS, bảo đảm quyền được tiếp nhận, tìm kiếm và truyền tải thông tin liên quan đến HIV/AIDS và thông qua biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hiểu biết của cộng đồng về HIV/AIDS, về quyền của phụ nữ có HIV/AIDS để cộng đồng tôn trọng và hạn chế những vi phạm các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS.

Thứ nhất, quyền được học tập của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Điều 39, Điều 40 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền được học tập, nghiên cứu khoa học và sáng tạo của công dân. Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006, quy

định người nhiễm HIV/AIDS được học văn hóa và học nghề. Luật bình đẳng giới quy định nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, lựa chọn ngành, nghề, tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, hỗ trợ cho phụ nữ là cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mang theo con dưới 36 tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực việc làm như phải đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo, hỗ trợ dạy nghề cho lao động nữ ở nông thôn. Như vậy quyền được học tập là quyền của công dân, không bị phân biệt đối xử bởi các yếu tố như giới tính, tình trạng có HIV/AIDS. Phụ nữ có HIV/AIDS được bình đẳng với các cá nhân khác trong việc học văn hóa và học nghề. Các cơ sở giáo dục không được từ chối tiếp nhập học viên vì lý do người đó nhiễm HIV, không được áp dụng các hình thức kỷ luật, đuổi học vì lý do người đó nhiễm HIV, không được tách biệt, hạn chế, cấm đoán học viên tham gia các hoạt động, dịch vụ vì người đó nhiễm HIV và không được yêu cầu học viên xét nghiệm hoặc xuất trình kết quả xét nghiệm HIV đối với học viên khi người đó đến xin học.

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 8

Thứ hai, phụ nữ có quyền được tìm kiếm, tiếp nhận và truyền tải các thông tin về HIV/AIDS. Phụ nữ là nhóm có nguy cơ cao lây nhiễm HIV do vậy quyền liên quan đến việc tìm kiếm, tiếp nhận các thông tin liên quan đến HIV/AIDS có vai trò quan trọng trong việc hạn chế nguy cơ lây nhiễm và tác động của HIV/AIDS đến sức khỏe và cuộc sống của họ.

Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Luật bình đẳng giới ghi nhận nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hóa, thông tin, bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.

Thứ ba, trong bối cảnh HIV/AIDS, việc giáo dục về HIV/AIDS có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết của mọi chủ thể trong xã hội về HIV/AIDS như nguyên nhân, con đường lây nhiễm, các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV để giảm nguy cơ lây nhiễm và sự phân biệt đối xử với người nhiễm HIV làm hạn chế sự vi phạm quyền của những người nhiễm

HIV/AIDS trong đó có phụ nữ. Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 quy định, các cơ sở giáo dục có trách nhiệm giảng dạy cho học sinh, sinh viên về phòng, chống HIV/AIDS, lồng ghép với giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản và thực hiện các hoạt động về phòng, chống HIV/AIDS.

Điều 40 Luật bình đẳng giới xác định những hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục như quy định về tuổi đào tạo, tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ, vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính, từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, nuôi con nhỏ.

Nghị định số 69/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và phòng chống HIV/AIDS quy định những hành vi vi phạm và mức xử phạt đối với những trường hợp vi phạm quyền của người nhiễm HIV/AIDS trong lĩnh vực giáo dục góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực thi các quyền về giáo dục của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

2.1.1.3 Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS trong lĩnh vực chăm sóc, điều trị y tế

Trong lĩnh vực chăm sóc y tế, pháp luật Việt Nam quy định, phụ nữ có quyền được chăm sóc y tế bình đẳng với nam giới.

Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 khẳng định không phân biệt nam, nữ và các yếu tố khác đều bình đẳng về quyền được bảo vệ sức khỏe và được tiếp cận với các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.

Kế hoạch hành động về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế giai đoạn 2011- 2015 (Ban hành kèm theo Quyết định số 2207 /QĐ-BYT ngày 29 tháng 6 năm 2011của Bộ trưởng Bộ Y tế) góp phần quan trọng vào việc tăng cường bình đẳng giữa nam và nữ trong cung cấp và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, góp phần cải thiện chất lượng bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển.

Luật phòng, chống HIV/AIDS quy định người nhiễm HIV/AIDS được điều trị và chăm sóc sức khỏe, phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV tự nguyện được miễn phí.

Có nhiều văn bản pháp luật được ban hành quy định cụ thể về việc tư vấn, xét nghiệm, chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS như Quyết định số 4620/QĐ-BYT ngày 25/11/2009 của Bộ y tế về việc ban hành hướng dẫn quốc tế về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, việc đưa xét nghiệm và tư vấn HIV là một phần của tiêu chuẩn và hướng dẫn quốc gia cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; Quyết định số 4139/QĐ-BYT ngày 02/11/2011 của Bộ y tế về việc sửa đổi hướng dẫn quốc gia về chẩn đoán và điều trị HIV (quyết định số 3003/QĐ-BYT) và thực hiện đầy đủ khuyến nghị 2010 của WHO về ARV; Thông tư 04/2011/TT-BLĐTBXH ngày 25/02/2011 của Bộ lao động thương binh và xã hội về tiêu chuẩn chăm sóc tại các trung tâm bảo trợ xã hội; Quyết định số 1781/2010/QĐ-BYT ngày 27/5/2010 của Bộ Y tế về việc hướng dẫn thực hiện chăm sóc người nhiễm HIV tại nhà và cộng đồng; Quyết định số 4361/QĐ-BYT ngày 07/11/2007 của Bộ Y tế về việc ban hành quy trình chăm sóc và điều trị phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. Nội dung các văn bản trên là nhằm đảm bảo cho người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị các bệnh do HIV/AIDS gây ra, tiếp cận với thành tựu về y tế trong việc chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, được đối xử công bằng và bình đẳng, không bị phân biệt đối xử cũng như quy định trách nhiệm của các cơ sở y tế, cán bộ cơ sở y tế không được phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS, tuân thủ các quy định về giữ bí mật thông tin liên quan đến HIV/AIDS của nhiễm HIV/AIDS.

Nhà nước có chính sách bảo trợ xã hội đối với người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động hoặc thuộc hộ gia đình nghèo.

Các trường hợp vi phạm quyền của người nhiễm HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế như: vi phạm các quy định về tư vấn, xét nghiệm như: không tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS cho phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, thu tiền xét nghiệm đối với phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV, vi phạm các quy định liên quan đến việc bảo mật thông tin của người nhiễm HIV hay vi phạm các quy định về chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV như không thực hiện việc theo dòi, điều trị và thực hiện các biện pháp nhằm giảm sự lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đối với phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, vi phạm các quy định về

can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, vi phạm các quy định của pháp luật về chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV, các quy định về phòng chống HIV đều bị xử phạt theo quy định tại nghị định số 69/NĐ-CP ngày 08/08/2011 của Chính phủ.

2.1.1.4 Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS trong lĩnh vực hôn nhân gia đình

Các quyền trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được ghi nhận tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013 và Điều 39 BLDS năm 2005.

Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định điều kiện cho việc kết hôn theo đó không có quy định về việc cấm kết hôn đối với những người nhiễm HIV/AIDS, người nhiễm HIV không phải xuất trình các giấy tờ liên quan đến HIV khi đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau trong việc quyết định các vấn đề của gia đình như các vấn đề về số con, khoảng cách giữa các lần sinh, trong giáo dục con cái, sở hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của gia đình.

Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định, yêu cầu ly hôn của người chồng không được cơ quan có thẩm quyền quyết định cho ly hôn trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Khi ly hôn các vấn đề về chia tài sản chung vợ chồng, người chăm sóc và nuôi con phụ nữ được ưu tiên hơn so với nam giới.

Gia đình của người nhiễm HIV có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS. Nghiêm cấm mọi hành vi bạo lực gia đình.

Luật bình đẳng giới quy định quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân – gia đình và xác định cụ thể những hành vi vi phạm pháp luật có liên quan.

Đối với trường hợp người nhiễm HIV không thông báo cho chồng/vợ hoặc người sắp kết hôn với mình biết tình trạng nhiễm HIV của bản thân sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo nghị định 69/NĐ-CP ngày 08/08/2011 của Chính phủ.

Các trường hợp vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đều bị xử lý theo quy định của pháp luật như nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009

của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình và theo các quy định của bộ luật hình sự trong trường hợp đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp luật khá toàn diện quy định quyền của phụ nữ trong mọi lĩnh vực và bình đẳng với nam giới. Các quy định này là phù hợp với pháp luật quốc tế.

2.1.1.5 Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030

Bên cạnh các quy định của pháp luật ghi nhận các quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, Chính phủ còn ban hành Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 ban hành kèm theo quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 25/5/2012 của Thủ tướng chính phủ góp phần thực hiện các Tuyên bố, cam kết quốc tế về HIV/AIDS mà Việt Nam tham gia và góp phần bảo đảm thực thi các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật trên thực tế.

Phù hợp với Tuyên bố cam kết về HIV/AIDS 2001, Tuyên bố chính trị về phòng chống HIV/AIDS năm 2011 và hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS về quyền con người của Liên hợp quốc, ngày 17/03/2004 Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 được ban hành kèm theo quyết định số 36/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và qua thời gian tổ chức thực hiện chiến lược đã đạt được những thành tựu nhất định như huy động được các Bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương thực hiện các nội dung của chiến lược, và hoàn thành tốt mục tiêu đặt ra của chiến lược trong giai đoạn này là khống chế tỷ lệ nhiễm HIV dưới 0,3% trong cộng đồng dân cư vào năm 2010.

Việc ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 là nhằm tiếp tục đặt ra và hoàn thành các mục tiêu phù hợp với tuyên bố chung của thế giới, bảo đảm cho công tác phòng, chống HIV/AIDS đạt hiệu quả cao, bền vững, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Chiến lược đã nhận định, phòng, chống HIV/AIDS phải dựa trên nguyên tắc

bảo đảm quyền con người, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV, chú trọng đến phụ nữ, các nhóm dễ bị lây nhiễm HIV như phụ nữ mại dâm.

Chiến lược đề ra mục tiêu như giảm tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2020, tăng tỷ lệ người dân độ tuổi từ 15-49 hiểu biết đầy đủ về HIV đạt 80% vào năm 2020, tăng tỷ lệ người dân không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV đạt 80% vào năm 2020, giảm 50% số trường hợp nhiễm mới HIV do lây truyền qua đường tình dục vào năm 2015 và 80% vào năm 2020 so với năm 2010, tăng tỷ lệ người nhiễm HIV được điều trị thuốc kháng vi rút HIV đạt 80% trên tổng số người nhiễm HIV đủ tiêu chuẩn điều trị vào năm 2020, giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 5% vào năm 2015 và dưới 2% vào năm 2020 và đề ra các giải pháp về chính trị, xã hội, giải pháp về pháp luật, chính sách, giải pháp về điều trị, chăm sóc để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS có vai trò quan trọng trong việc thực thi các quyền con người của phụ nữ đặc biệt là phụ nữ có HIV/AIDS thể hiện ở các yếu tố sau:

Thứ nhất, giảm nguy cơ lây nhiễm HIV ở phụ nữ: Phụ nữ được hưởng các chương trình liên quan đến truyền thông, nâng cao nhận thức về HIV/AIDS, qua đó phụ nữ có thể chủ động bảo vệ bản thân trước nguy cơ lây nhiễm HIV, đặc biệt là con đường lây nhiễm qua quan hệ tình dục – con đường lây nhiễm HIV phổ biến ở phụ nữ.

Các giải pháp nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm qua quan hệ tình dục như các chương trình cung cấp bao cao su cho các nhóm đối tượng có nguy cơ cao như phụ nữ mại dâm, cung cấp bơm kim tiêm sạch cho nhóm đối tượng nghiện chích ma túy.

Thứ hai, giảm tính tổn thương ở những phụ nữ có HIV/AIDS:

Thông qua các chương trình giáo dục, truyền thông nhận thức của cộng về HIV được nâng cao sẽ hạn chế được sự kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội đối với phụ nữ có HIV/AIDS.

Tỷ lệ phụ nữ được tư vấn, chăm sóc, điều trị HIV sẽ tăng lên. Phụ nữ có cơ

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí