Bảo Vệ Quyền Lợi Của Phụ Nữ Việt Nam Trong Quan Hệ Tài Sản

Quy định này cũng góp phần giúp người vợ thoát khỏi những đau khổ về mặt tinh thần, thể xác khi sống cùng với người chồng bạo lực gia đình đồng thời đảm bảo cho người vợ các quyền lợi hợp pháp sau khi ly hôn.

Tóm lại, những trường hợp nêu trên được pháp luật quy định nhằm bảo vệ cho người phụ nữ, giúp người phụ nữ thoát khỏi cuộc hôn nhân không thành công, góp phần đảm bảo cho đời sống cho người vợ. Những quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành đảm bảo quyền tự do ly hôn của người phụ nữ vững chắc hơn từ những nguyên tắc hiến định cho đến những quy định pháp luật cụ thể. Thông qua đó, người vợ được đảm bảo quyền yêu cầu ly hôn trong những trường hợp pháp luật quy định và góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật hiện hành.

2.2. BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ TÀI SẢN

Quyền tài sản của vợ chồng hay còn gọi là chế độ tài sản của vợ chồng

là một phạm trù thuộc quyền sở hữu tài sản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.

Để đảm bảo thực sự quyền tự định đoạt của công dân, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng. Điều đó phụ hợp với yêu cầu khách quan của xã hội.

Chế độ tài sản giữa vợ và chồng mà Luật HN&GĐ năm 2014 quy định đã tạo ra môi trường pháp lý đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng khi tham gia các giao dịch ngoài xã hội cũng như xã định rõ trách nhiệm, khả năng thanh toán của vợ chồng và đảm bảo quyền và lợi ích của những người khác khi tham gia giao dịch. Mặt khác, đó còn là căn cứ pháp lý để các cấp Tòa án giải quyết thấu đáo, công bằng những vụ tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Đây chính là căn cứ để bảo đảm quyền lợi của người phụ nữ trong quan hệ tài sản.

2.2.1. Bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong việc xác định tài sản chung

Để đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ, Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng [42].

Như vậy, căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 là: thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc tài sản. Ở từng căn cứ đó, chúng ta sẽ xét nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ thể hiện ở những mức độ nào.

Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2014 - 8

Thời kỳ hôn nhân

Thực chất quyền của mỗi bên vợ chồng về tài sản chỉ được thiết lập và đảm bảo một cách công bằng khi xác định đúng thời điểm phát sinh quyền đó. Thời điểm phát sinh tài sản chung cũng chính là bắt đầu thời kỳ hôn nhân. Nó có ý nghĩa là tiền đề, cơ sở trong việc xác lập quyền lợi của người phụ nữ. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: Tài sản chung chỉ hình thành từ khi có sự kiện kết hôn và sẽ không còn khi hôn nhân chấm dứt. Theo điểm 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014, thời kỳ hôn nhân được hiểu là: "khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính kể từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày hôn

nhân chấm dứt hôn nhân". Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể, rõ ràng về thời điểm phát sinh và chấm dứt tài sản chung vợ chồng, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm thiết lập quyền của mỗi bên, từ đó có cơ chế bảo vệ quyền của người vợ trong quan hệ tài sản. Người phụ nữ có thể dựa vào đó để bảo vệ quyền lợi của mình.

Khác với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không được pháp luật công nhận, sẽ không xác định được thời kỳ hôn nhân. Vì vậy mà quyền của người phụ nữ không được đảm bảo vì không xác định được thời điểm xác lập quyền đối với tài sản. Việc xác định tài sản chung và tài sản riêng không có cơ sở rõ ràng, vì thế thực tế khi xảy ra tranh chấp sẽ không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người vợ.

Nguồn gốc của tài sản

Nếu xác định thời kỳ hôn nhân (thời điểm phát sinh tài sản chung) là cơ sở tiền đề để thực hiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người vợ, thì quy định về nguồn gốc tài sản chung là bước cụ thể hóa nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong việc xác định tài sản chung. Thông qua quy định những tài sản nào thuộc về tài sản chung vợ chồng có thể nhận thấy nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã được áp dụng để xác định. Những tài sản chung của vợ chồng bao gồm:

Thứ nhất: Tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.

Khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra" [42]. Ngay từ mặt hình thức, cái dấu phẩy trong luật đã chứa đựng ý chí của Nhà nước khi xây dựng Luật HN&GĐ năm 2014. Rằng chỉ cần một bên vợ hoặc chồng tạo ra tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản đó được coi là tài sản chung vợ chồng. Hành vi tạo ra tài sản không nhất thiết phải do hai vợ chồng cùng thực hiện. Xuất phát từ việc nhìn nhận vai trò của cả hai bên đối với tài sản chung là ngang nhau, nên pháp luật mới xác lập quyền sở hữu chung dựa trên nguồn

gốc như vậy. Tuy nhiên, tạo ra chỉ được hiểu theo quan niệm các nhà làm luật, mà chưa được các văn bản pháp luật quy định cụ thể: "tạo ra" có nghĩa là một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng bằng sức lao động trực tiếp của mình để tạo ra tài sản cho gia đình; hoặc cũng có thể do vợ, chồng dùng thu nhập hoặc các vật có giá trị trao đổi khác trong khối tài sản chung thuê hoặc mua quyền sở hữu tài sản do người thứ ba trực tiếp làm ra.

Như vậy, dù trực tiếp hay mua lại quyền sở hữu tài sản riêng của bên thứ ba và lấy tiền hay những vật có giá trị trao đổi từ khối tài sản chung, thì việc xác lập tài sản chung không căn cứ vào việc cả hai vợ chồng phải là người thực hiện; mà chỉ cần một trong hai người tạo ra tài sản cho gia đình; hoặc một bên người chồng xác lập giao dịch vì quyền lợi của cả gia đình, thì tất yếu sẽ xác lập đó là tài sản chung. Pháp luật quy định như vậy là xuất phát từ việc nhìn nhận vị trí vai trò của người phụ nữ là như nhau, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong gia đình.

Thứ hai: Thu nhập vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân.

Khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận: "thu nhập từ lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là tài sản chung vợ chồng" [42]. Theo Từ điển tiếng Việt thu nhập được hiểu là "nhận được của cải vật chất từ một hoạt động nào đó". Như vậy, thu nhập của vợ chồng có thể được hiểu là những lợi ích vật chất mà vợ chồng có được bao gồm các khoản tiền công, tiền lương phát sinh từ các hoạt động lao động mang tính chất nghề nghiệp, không mang tính chất nghề nghiệp hoặc các khoản lợi tức phát sinh từ các hoạt động sử dụng, quản lý tài sản trong sản xuất, kinh doanh hoặc trong giao lưu dân sự. Như vậy, những khoản thu nhập có thể có từ rất nhiều nguồn, pháp luật đã quy định chỉ cần do cá nhân vợ hoặc chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Do quá trình phân công lao động sản xuất mà người vợ, người chồng

có thể làm những công việc khác nhau, phù hợp với khả năng của mỗi bên. Bất kể là một bên hoặc hai bên làm ra trong thời kỳ hôn nhân thì đó vẫn được coi là tài sản chung vợ chồng. Nếu gia đình chỉ có người chồng đi làm và tạo ra thu nhập, còn người vợ ở nhà làm công việc nhà và không tạo ra thu nhập thì thu nhập tạo ra vẫn là của chung hai vợ chồng. Pháp luật quy định như vậy là dựa vào bản chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân gia đình. Xuất phát từ yếu tố tình cảm mà gắn kết hôn nhân, tài sản tạo ra cũng là để xây dựng gia đình và để củng cố tình cảm, vì thế mà không phân biệt tài sản là do người chồng làm ra, nó đều là tài sản chung vợ chồng. Chính sự không phân biệt về thu nhập này là một trong những cơ sở để đảm bảo quyền lợi của người vợ trong quan hệ tài sản.

Thứ ba: Tài sản do vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung.

Đây là trường hợp xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng phụ thuộc vào sự định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định pháp luật về thừa kế (BLDS).

Thứ tư: Quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn.

Khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp được thừa kế riêng. Như vậy, trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được tặng cho riêng, thừa kế riêng, nếu vợ chồng hoặc một bên người chồng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao hoặc cho thuê đất ở, giao đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng thì quyền sử dụng các loại đất này cũng được xác định là tài sản chung ngay cả khi người vợ không trực tiếp sử dụng đất đó. Như vậy, dựa vào bản chất của hôn nhân, mục đích chung sống cùng gây dựng sự nghiệp mà pháp luật quy định dù chỉ giao cho một bên là người chồng thì đất đai sẽ thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Vì đất đai thường được sử dụng để làm kinh tế hoặc nếu vì lý do khác cũng phục vụ lợi

ích của cả gia đình, nên quy định nó là tài sản chung. Quy định này càng khẳng định quyền của người vợ đối với tài sản chung trong gia đình là ngang nhau trong khối tài sản trong gia đình.

Thứ năm: Tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cả những tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì cũng là tài sản chung. Cụ thể trong hai trường hợp vợ chồng có thể thỏa thuận đó là:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận: "vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung" [42]. Quy định như vậy là xuất phát từ quyền của mỗi bên vợ chồng. Pháp luật đã thừa nhận quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản, sự thỏa thuận là biểu hiện cao nhất của sự công bằng, bình đẳng giữa vợ và chồng. Theo đó, vợ chồng có thể thỏa thuận là tài sản chung đối với tài sản có khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ trong trường hợp tài sản chung chia trong thời kỳ hôn nhân; đồ dùng tư trang cá nhân. Việc thỏa thuận này ghi nhận sự bình đẳng trong việc thể hiện ý chí của vợ, chông đối với khối tài sản chung. Nếu người chồng muốn nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhưng người vợ không đồng ý thì sẽ không được nhập.

Việc khôi phục chế độ tài sản chung sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng được xác định dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng, tức là tôn trong quyền của mỗi cá nhân nói chung và của người phụ nữ nói riêng.

Thứ sáu: Tài sản chung là những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng.

Khi xác định tái sản trong trường hợp có tranh chấp, không kể đó là tài sản riêng của người chồng nhưng nếu như không có căn cứ chứng minh là tài sản riêng thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Quy định như vậy nhằm nâng cao trách nhiệm của mỗi bên, không phân biệt là bên vợ hoặc bên chồng

đều phải chú ý bảo vệ quyền sở hữu của mình. Nguyên tắc suy đoán pháp lý này là một điểm mới trong Luật HN&GĐ năm 2000 và tiếp tục được kế thừa trong Luật HN&GĐ năm 2014: "Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung" [42, Khoản 4 Điều 33]. Trong trường hợp người chồng nhận tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng của mình nhưng không có đủ chứng cứ chứng minh thì tài sản đó được xác định là tài sản chung vợ chồng.

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ còn thể hiện qua quy định: Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

Khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất" [42]. Đây là điều luật cụ thể hóa Điều 233 BLDS. Đối với tài sản chung của vợ chồng là đồng sở hữu chủ, trong đó phần quyền của mỗi bên không được xác định cụ thể. Việc quy định quyền sở hữu đặc biệt không phân chia như vậy được vì Luật HN&GĐ Việt Nam ghi nhận vị trí vai trò của vợ, chồng là như nhau. Nó thực sự thể hiện được bản chất của hôn nhân là nam nữ bình đẳng, dựa trên cơ sở tình cảm gây dựng cuộc sống, xóa bỏ sự phân biệt về giới, về đóng góp công sức. Nhờ có quy định như vậy, mà người phụ nữ được đánh giá, thụ hưởng ngang nhau các thành quả của sự phát triển khi lập gia đình.

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ được thể hiện thông qua quy định tài sản chung của vợ chồng phải được đăng ký theo quy định của pháp luật.

Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng" [42]. Quy định một số tài sản có đăng ký quyền sở hữu phải ghi họ tên của cả hai vợ chồng có ý nghĩa rất quan trọng, nó khẳng định

sự bình đẳng về tư cách chủ thể của người vợ trong quan hệ sở hữu chung hợp nhất, đồng thời tạo điều kiện cho việc đưa tài sản vào tham gia các giao dịch dân sự hoặc kinh tế. Quy định đó chứng tỏ các nhà làm luật đã dự kiệu sự bình đẳng có đảm bảo cho người phụ nữ. Ghi tên của người vợ đối với các tài sản phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu chính là ghi nhận quyền sở hữu tương đương nhau đối với tài sản chung, nhất là những tài sản có giá trị lớn.

Trên thực tế, giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tái sản chung chỉ ghi tên một bên vợ, chồng, khi giải quyết Tòa án vẫn công nhận tài sản chung. Bởi vì pháp luật HN&GĐ đã dự liệu để đảm bảo quyền của người vợ cũng như người chồng nếu không được ghi tên trong khối tài sản chung.

Pháp luật quy định như vậy là nhằm bảo vệ quyền lợi tối đa của người vợ đối với khối tài sản chung. Vì tài sản chung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo cho gia đình có một cơ sở vật chất ổn định để thực hiện các chức năng gia đình và các chức năng xã hội. Vì vậy, pháp luật luôn dự liệu những quy định chặt chẽ với tài sản chung của vợ chồng dựa trên nguyên tắc bình đẳng, đảm bảo cuộc sống gia đình bền vững, góp phần nâng cao dân chủ và hạnh phúc trong gia đình.

Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong việc tạo lập và bảo vệ khối tài sản chung.

Pháp luật quy định nghĩa vụ chung của vợ chồng, để tùy vào hoàn cảnh gia đình, điều kiện sức khỏe công tác mà tạo lập, phát triển khối tài sản chung. Theo Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 thì: "Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản do vợ, chồng tạo ra, những thu nhập hợp pháp mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân (trừ những trường hợp pháp luật quy định là tài sản riêng)... Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất" [42], quy định như vậy thể hiện tính hợp nhất của quyền sở hữu, ghi nhận vai trò ngang nhau của cả vợ, chồng trong quan hệ sở hữu. Đó là một đặc trưng thường chỉ xuất hiện trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, xuất phát từ tính

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 29/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí