Các quốc gia xác định được sự tác động to lớn của HIV/AIDS đến mọi mặt của đời sống xã hội mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế, đặc biệt thừa nhận phụ nữ và trẻ em gái là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất qua đó có sự quan tâm và đầu tư mọi nguồn lực cho việc hạn chế những rủi ro do HIV/AIDS gây ra.
Tạo cơ sở cho sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực và quốc tế trong một cuộc chiến toàn cầu phòng chống HIV/AIDS và bảo đảm các quyền con người của những người có HIV/AIDS đặc biệt là việc nâng cao quyền năng cho phụ nữ.
Những mục tiêu mà Tuyên bố đề ra là đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách, chiến lược và áp dụng mọi biện pháp để thực hiện.
Sau 10 năm thực hiện, đến năm 2011, trong Tuyên bố chính trị về HIV và AIDS của Liên hợp quốc đã ghi nhận, cộng đồng quốc tế đã đạt được những kết quả quan trọng như: giảm hơn 25% tỷ lệ các ca nhiễm mới ở hơn 30 quốc gia, giảm đáng kể lây truyền HIV từ mẹ sang con, và việc mở rộng chưa từng có khả năng tiếp cận điều trị ARV cho hơn 6 triệu người, kết quả đưa đến là giảm hơn 20% số ca tử vong có liên quan đến HIV. Tuyên bố này cũng ghi nhận, cam kết trên toàn thế giới đối với dịch HIV toàn cầu là chưa từng có tiền lệ kể từ Tuyên bố cam kết năm 2001 về phòng, chống HIV, những cam kết này được thể hiện bằng việc gia tăng nguồn kinh phí gấp 8 từ 1,8 tỷ USD năm 2001 lên 16 tỷ USD năm 2010, số lượng tài chính lớn nhất dành cho cuộc chiến với một căn bệnh duy nhất trong lịch sử.
Vào tháng 6 năm 2011, Liên Hợp quốc đã thông qua Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AID với mục tiêu tăng cường mạnh mẽ nỗ lực của cộng đồng quốc tế để xóa bỏ HIV và AIDS bằng cách thúc đẩy việc tiếp tục các cam kết chính trị và sự tham gia của các nhà lãnh đạo vào một ứng phó toàn diện tại cấp độ cộng đồng, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đẩy lùi dịch HIV và giảm thiểu tác động của dịch. Yêu cầu các quốc gia xây dựng và triển khai các kế hoạch tài chính và chiến lược quốc gia đa ngành để chống HIV/AIDS, chú trọng vào những vấn đề trọng tâm như: xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử và cách ly xã hội, lôi kéo sự tham gia của các nhóm có nguy cơ cao, đặc biệt là phụ nữ, lồng ghép quan điểm về giới …
Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AIDS năm 2011 đã nhận định tình hình, diễn biến của HIV và AIDS trên toàn thế giới, xác định những hậu quả mà HIV và AIDS đã gây ra với nhân loại, đồng thời nhấn mạnh HIV tác động không đồng đều đối với mỗi quốc gia, khu vực và đối với mỗi nhóm xã hội. Tuyên bố chính trị về phòng chống HIV/AIDS đã nhận định: “Phụ nữ và trẻ em gái trên toàn cầu vẫn bị ảnh hưởng nhiều nhất từ dịch HIV” và phải chịu gánh nặng về chăm sóc và khả năng để phụ nữ và trẻ em gái tự bảo vệ tránh khỏi lây nhiễm HIV vẫn tiếp tục bị tổn hại do các yếu tố sinh lý, sự bất bình đẳng giới, kể cả tình trạng bất bình đẳng về pháp lý, kinh tế và xã hội, tiếp cận không đầy đủ đến chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác như: sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản và tất cả các hình thức phân biệt đối xử và bạo hành, kể cả bạo lực và bóc lột về tình dục. Tuyên bố khẳng định lại một lần nữa sự cần thiết của “việc thành lập tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc (UN Women) như là một bên đối tác mới, đóng một vai trò quan trọng trong các nỗ lực toàn cầu phòng, chống HIV, thông qua thúc đẩy bình đẳng giới và tăng cường quyền lực cho phụ nữ, đó là nguyên tắc cơ bản để giảm tính dễ tổn thương của phụ nữ đối với HIV”
Các quốc gia ký Tuyên bố cam kết xóa bỏ bất bình đẳng giới, lạm dụng và bạo hành giới, tăng cường năng lực của phụ nữ và em gái vị thành niên để tự bảo vệ bản thân trước nguy cơ lây nhiễm, chủ yếu thông qua cung cấp sự chăm sóc y tế và các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, và cung cấp sự tiếp cận đầy đủ đến các thông tin và giáo dục toàn diện; bảo đảm rằng phụ nữ có thể thực hiện được quyền kiểm soát, và quyết định một cách tự do và có trách nhiệm đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động tình dục của họ nhằm tăng cường khả năng bảo vệ bản thân họ trước nguy cơ lây nhiễm HIV, bao gồm cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản của họ, không chịu sự ép buộc, phân biệt đối xử và bạo hành, và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc trao quyền cho phụ nữ và tăng cường sự độc lập về kinh tế của họ”
Các quốc gia cam kết tăng cường bảo vệ các quyền con người thông qua các chương trình xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử với những người có HIV, kể cả gia
đình họ, tính bảo mật, hỗ trợ các chiến dịch quốc gia về đào tạo các quyền con người, phổ biến văn bản pháp luật và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý, chăm sóc sức khỏe.
Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AIDS năm 2011 có vai trò quan trọng đối với các quốc gia trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã đề ra bởi các lý do sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 1
- Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 2
- Sự Bình Đẳng Của Mọi Công Dân Trước Pháp Luật
- Công Ước Về Xóa Bỏ Mọi Hình Thức Phân Biệt Đối Xử Chống Lại Phụ Nữ, 1979 (Cedaw)
- Quyền Được Kết Hôn, Lập Gia Đình Và Bảo Vệ Gia Đình
- Quyền Được Tham Gia Vào Đời Sống Văn Hóa, Chính Trị
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
HIV và AIDS không phải là vấn đề của một quốc gia, một khu vực mà đó là một vấn đề toàn cầu, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các quốc gia trong việc giảm thiểu tác động do HIV và AIDS gây ra cũng như giảm thiểu sự lây lan của đại dịch trên toàn thế giới. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác cũng như sự hỗ trợ của những quốc gia phát triển cho những quốc gia kém phát triển nhưng lại chịu hậu quả nặng nề của HIV và AIDS.
Tuyên bố đề ra những mục tiêu chung, đòi hỏi các quốc gia cam kết phải nỗ lực thực hiện mọi biện pháp để đạt được những mục tiêu mà cộng đồng quốc tế đã đề ra.
Đồng thời Tuyên bố đưa ra những giải pháp để các quốc gia có thể xây dựng những chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS phù hợp với từng điều kiện cụ thể và bối cảnh xã hội cũng như hình thái dịch tễ của từng quốc gia có liên quan. Tất cả những nỗ lực của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế đều hướng đến mục tiêu hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ đảm bảo cho con người có một cuộc sống lành mạnh cả về thể chất và tinh thần.
Định kỳ các quốc gia phải lập báo cáo nhận đình về tình hình, diễn biến của đại dịch ở quốc gia mình, kết quả mà quốc gia đã đạt được và các biện pháp mà quốc gia đã tiến hành trong quá trình thực hiện mục tiêu.
Việt Nam là một thành viên ký kết Tuyên bố chính trị năm 2011 về phòng chống HIV và AIDS. Tại Hội nghị cấp cao về HIV/AIDS ở New York, Mỹ tháng 6 năm 2012, Việt Nam đã khẳng định lại quyết tâm của mình trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS dựa trên việc đảm bảo các quyền con người của người có HIV/AIDS.
Tháng 03 năm 2012, Việt Nam có báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS thực hiện Tuyên bố chính trị năm 2011 về HIV/AIDS. Bản báo cáo đã nhận định: Việt Nam coi trọng cam kết này và đảm bảo rằng bản báo cáo quốc gia về tiến trình
thực hiện cam kết mang tính toàn diện và phản ánh chính xác tình hình thực tế của ứng phó với HIV tại Việt Nam, thể hiện sự đồng thuận quốc gia về các thành tựu và thách thức chính trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2010 và 2011.
Đối với nhà nước ta, cơ sở chính trị của việc bảo đảm quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng là đường lối lãnh đạo của Đảng với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Công tác lãnh đạo phòng chống HIV/AIDS và đảm bảo quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng được ghi nhận trong một số văn bản như Chỉ thị số 52 năm 1995 về lãnh đạo công tác phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Chỉ thị 54/2005/CT-TW ngày 30/11/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới.
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị đã xác định bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước, đó là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Một trong những nhiệm vụ được đề ra tại Nghị quyết là “nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh đặc biệt là HIV/AIDS, chú trọng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em”.
Chỉ thị 54/2005/CT-TW ngày 30/11/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới đã nêu lên những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chỉ thị 52-CT/TW đồng thời nhận định những khó khăn, hạn chế trong quá trình lãnh đạo và thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS. Với quan điểm không để HIV/AIDS phát triển tràn lan thành đại dịch, chỉ thị đã đề ra những yêu cầu trong công tác phòng chống HIV/AIDS, một trong những yêu cầu đó là:
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội và của người dân đối với công tác phòng chống HIV/AIDS.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Đổi mới, đa dạng hóa và đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong xã hội nhằm xây dựng nhận thức đúng về nguy cơ và hiểm họa của dịch HIV/AIDS và có thái độ, hành vi, cư xử đúng đối với người nhiễm HIV/AIDS.
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phòng chống HIV/AIDS, phát huy truyền thống tương thân, tương ái, chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
Các văn bản trên có vai trò quan trọng trong công tác phòng chống HIV/AIDS cũng như cho việc đảm bảo các quyền con người của người có HIV/AIDS trong đó có nhóm phụ nữ, thể hiện ở các khía cạnh sau:
Tạo được sự tham gia của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, sự tham gia của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân, tổ chức trong xã hội đối với nhóm người có HIV/AIDS, trong đó đặc biệt quan tâm đến đối tượng phụ nữ.
Tăng cường hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc phòng chống và bảo đảm quyền con người của người có HIV/AIDS.
Tổ chức bộ máy phòng chống HIV/AIDS được thành lập từ trung ương đến cơ sở đã tăng cường vai trò lãnh đạo trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Những chương trình dự phòng, lây truyền HIV/AIDS được triển khai và nhân rộng, đặc biệt là những chương trình dành cho phụ nữ như chương trình dự phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con, chương trình bao cao su, chương trình bơm kim tiêm.
1.1.3.2 Bảo đảm bằng pháp luật
Bảo đảm bằng pháp luật là biện pháp bảo đảm có hiệu quả và thiết thực nhất đối với phụ nữ có HIV/AIDS, bởi pháp luật chính là những quy tắc xử sự có
tính bắt buộc chung và được nhà nước bảo đảm thi hành. Bảo đảm về pháp luật đối với các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp:
Về mặt lập pháp: Pháp luật là nơi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của phụ nữ có HIV/AIDS, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác trong việc tôn trọng các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS cũng như các quy định về biện pháp thực hiện và bảo đảm quyền và quy định các chế tài áp dụng trong trường hợp các quyền đó bị vi phạm.
Yêu cầu đặt ra trong quá trình lập pháp đó là:
Phải đảm bảo độ bao phủ của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan, tức là phải có một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ ghi nhận các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên mọi lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo về chất lượng tức là các quy định đó phải rò ràng, thống nhất, ổn định không có sự mâu thuẫn với các quy định của pháp luật quốc tế và giữa các văn bản pháp luật quốc gia đảm bảo cho việc thực hiện quyền một cách có hiệu quả. Đảm bảo được các yêu cầu về sự bình đẳng, không phân biệt đối xử trong pháp luật.
Về mặt hành pháp: Bảo đảm thực thi các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên thực tế theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biêt đối xử. Có các chương trình, chính sách nhằm đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS có thể thực hiện các quyền của mình. Đảm bảo các yếu tố về con người, cơ sở vật chất, tài chính cho việc thực thi các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS một cách có hiệu quả.
Về mặt tư pháp: Xử lý những người có hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, người vi phạm tùy theo tính chất, mức độ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý hình sự và bồi thường cho người bị vi phạm. Đây là cơ chế đảm bảo cho quyền con người được tôn trọng và thực thi có hiệu quả, bởi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS luôn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm bởi nhiều chủ thể trong xã hội. Việc xử lý người có hành vi vi phạm một mặt nhằm đảm bảo sự nghiêm minh,
công bằng của pháp luật, bảo vệ người bị vi phạm, mặt khác nhằm răn đe, giáo dục người có hành vi vi phạm và các chủ thể khác trong việc tôn trọng các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS.
Để bảo đảm các quyền của người bị vi phạm, các thủ tục giải quyết cần đơn giản, nhanh chóng, trong một số trường hợp phải đảm bảo sự bảo mật các thông tin liên quan đến người bị vi phạm và cần có biện pháp để đảm bảo thi hành những phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, có các cơ quan bảo đảm quyền của phụ nữ bị vi phạm. Các cơ quan chủ yếu là tòa án và Ủy ban nhân dân các cấp.
Trong đó tòa án là cơ quan xét xử, có vai trò quan trọng nhất trong việc xử lý vi phạm các quyền của phụ nữ khi bị xâm phạm trên các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính:
Trên lĩnh vực dân sự: Tòa án có thẩm quyền giải quyết những trường hợp vi phạm các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS khi có yêu cầu của người bị vi phạm, các lĩnh vực giải quyết chủ yếu thuộc thẩm quyền của Tòa án như các tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự như lao động, hôn nhân gia đình…
Trên lĩnh vực hình sự: Các hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của bộ luật hình sự như nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trong đó tình tiết “biết mình có HIV mà vẫn phạm tội” là một trong những tình tiết tăng nặng khung hình phạt, đồng thời có các quy định về tội “lây truyền HIV cho người khác” và tội “cố ý truyền HIV cho người khác” đều bị pháp luật xử lý nghiêm minh.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý hành chính ở địa phương, có trách nhiệm bảo đảm các quyền của phụ nữ ở địa phương trong một số lĩnh vực như hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình.
1.1.3.3 Bảo đảm về kinh tế
Phần lớn những người có HIV/AIDS là người nghèo, trình độ dân trí thấp cộng thêm tác động của HIV/AIDS nên dễ dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đói nghèo,
thất học. Hơn nữa, trong gia đình, phụ nữ thường có vai trò phụ thuộc về mặt kinh tế. Do vậy, việc đảm bảo về mặt kinh tế đối với những phụ nữ có HIV/AIDS có vai trò quan trọng bởi yếu tố kinh tế tác động trực tiếp đến cuộc sống của họ, khi được bảo đảm về kinh tế họ có thể chủ động ứng phó với hậu quả của HIV/AIDS. Việc đảm bảo về kinh tế cho phụ nữ có HIV/AIDS có thể dưới các hình thức:
Dành ngân sách nhà nước phù hợp cho các hoạt động bảo đảm quyền của phụ nữ. Nhà nước là chủ thể quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các chính sách liên quan đến việc giảm tác hại của HIV/AIDS đối với đời sống của những người có HIV/AIDS. Ngân sách nhà nước đảm bảo cho các hoạt động như thực hiện chương trình truyền thông, giáo dục, đáp ứng các nhu cầu về xét nghiệm, chăm sóc, điều trị cho phụ nữ có HIV/AIDS.
Nhà nước có chính sách trợ cấp cho phụ nữ có HIV/AIDS để họ có thể đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của bản thân như về ăn, mặc, ở và điều trị HIV/AIDS.
Có chương trình hỗ trợ cho phụ nữ có HIV/AIDS được học nghề và tạo công ăn việc làm cho họ. Vì đây là nhân tố vững chắc đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS điều kiện để tạo ra thu nhập chính đáng, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bản thân.
Các chương trình đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS được tiếp cận các nguồn vốn và những khoản tín dụng để họ tự tạo việc làm và thúc đẩy sự độc lập về kinh tế để giảm gánh nặng cho gia đình, xã hội và giúp họ có được niềm tin trong cuộc sống.
1.2 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
1.2.1 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980, sau đó đã lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Trước bối cảnh đại dịch HIV/AIDS, cộng đồng quốc tế nhận thấy rằng cần thiết phải xây dựng một văn bản pháp lý riêng trong việc bảo đảm các quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, các văn kiện pháp luật quốc tế