Bảo Vệ Quyền Lợi Của Doanh Nghiệp Theo Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng

nhau, việc kê khai quyết toán thuế chưa đầy đủ, chưa chính xác. Mục đích của công tác kiểm tra quyết toán thuế là nhằm phát hiện các hành vi trốn, lậu thuế để truy thu lại cho NSNN đồng thời xử phạt đối với các hành vi vi phạm. Qua làm việc với đoàn kiểm tra thuế và đối chiếu với chính sách thuế, nếu tự xác định số liệu đã hạch toán trước đây là chưa chính xác làm cho nghĩa vụ nộp thuế cao hơn so với thực tế thì doanh nghiệp có thể hạch toán bổ sung vào niên hiện hành đối với khoản chênh lệch đó, đồng thời kê khai bổ sung, có giải trình cụ thể với cơ quan thuế và hoàn toàn chịu trách nhiệm về số kê khai bổ sung này.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Pháp luật thuế GTGT là một công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thuế đối với doanh nghiệp đồng thời là căn cứ pháp lý để doanh nghiệp thực hiện các quyền, nghĩa vụ thuế GTGT. Luật thuế GTGT và Luật Quản lý thuế GTGT là hai bộ phận không thể thiếu của pháp luật thuế GTGT, trong khi Luật thuế GTGT chứa đựng các quy định liên quan nội dung thực hiện thuế GTGT thì Luật Quản lý thuế bao gồm những quy định điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý thuế GTGT của Nhà nước. Luận văn nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản về thuế GTGT, pháp luật thuế GTGT, những nội dung chủ yếu của pháp luật thuế GTGT điều chỉnh quyền và nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp.

Chương 2

THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP

VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN


2.1. BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP THEO LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

2.1.1. Thực hiện nghĩa vụ kê khai hàng hóa, dịch vụ chịu thuế

Doanh nghiệp khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế cho Nhà nước. Trong pháp luật thuế GTGT, kê khai thuế vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền tự mình kê khai thuế và có trách nhiệm với nội dung mình đã kê khai. Nghĩa vụ kê khai thuế GTGT đối với loại hình hàng hóa, dịch vụ khác nhau, luật thuế GTGT có những điều chỉnh riêng theo chiến lược quan tâm chú trọng phát triển xuất khẩu làm động lực lôi kéo phát triển nền kinh tế do đó nghĩa vụ kê khai của doanh nghiệp đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này có những điều chỉnh riêng.

2.1.1.1. Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu

Theo quy định thuế suất thuế GTGT hàng xuất khẩu là 0% (Khoản 1 Điều 8 Luật thuế GTGT), nghĩa là doanh nghiệp xuất khẩu được hoàn lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc này thực chất là hình thức trợ giá của Nhà nước cho hàng hóa xuất khẩu, giúp cho các doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh với hàng hóa trên thị trường quốc tế. doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ kê khai thuế phải kê khai và có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ đúng hạn vào NSNN tuy nhiên doanh nghiệp lại được khấu trừ và hoàn thuế GTGT gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho việc xuất khẩu kinh

doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế. Rõ ràng đối với mức thuế suất 0% doanh nghiệp xuất khẩu hưởng ưu đãi so với doanh nghiệp nhập khẩu và so với doanh nghiệp không chịu thuế cũng ưu đãi hơn rất nhiều. Vì về bản chất tuy doanh nghiệp không chịu thuế và doanh nghiệp chịu thuế suất 0% đều không nộp tiền thuế nhưng doanh nghiệp chịu thuế 0% được khấu trừ và hoàn thuế trong khi doanh nghiệp không chịu thuế thì không được khấu trừ và hoàn thuế.

Còn ngược lại đối với doanh nghiệp có hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, thuế GTGT hàng nhập khẩu được tính trên giá mua đã có thuế nhập khẩu nên giá sản phẩm sẽ cao hơn giá hàng hóa trong nước.


Giá tính thuế GTGT

=

Giá nhập khẩu

+

Thuế tiêu thụ đặc biệt

+

Thuế nhập khẩu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 7

Hàng hóa, dịch vụ của nước xuất khẩu thường là hàng hóa lợi thế của nước xuất khẩu nên khi giá tính thuế bao gồm giá nhập khẩu cộng thuế TTĐB và thuế nhập khẩu thì sẽ làm tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nhập khẩu. Các quốc gia thường đánh thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia của mình nhằm cân bằng giá cả thị trường hay một cách trực tiếp là nhằm giảm đi lợi thế của hàng nhập khẩu để không ảnh hướng đến hoạt động sản xuất trong nước.

Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập ngày nay, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất yếu khách quan. Theo đó, các cam kết hội nhập mà nước ta đã ký sẽ được thực hiện ở mức độ cao hơn giai đoạn vừa qua như: đối với Hiệp định Việt Mỹ thì 224 dòng thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm bình quân 30%, đối với WTO, Việt Nam phải cắt giảm 22% thuế nhập khẩu, thực hiện chủ yếu trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, mức giảm thuế lớn tập trung ở 3 năm đầu tiên sau đó giảm đều hơn. Ngay trong năm đầu tiên sẽ cắt giảm cho 1500 dòng thuế chiếm 20% biểu thuế. Với biểu thuế tối huệ quốc hiện hành (MFN) có

mức thuế bình quân là 17,5 % trong đó các mặt hàng có mức thuế suất từ 0 đến 5% đã chiếm tỉ trọng xấp xỉ một nửa biểu thuế, nhưng Việt Nam đã cam kết giảm 30% so với mức thuế hiện hành. Như vậy, Việt Nam đã ràng buộc 100% biểu thuế và 90% kim ngạch nhập khẩu hàng năm là phạm vi mở cửa để gia nhập WTO [36].

Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện các nguyên tắc của WTO, trong đó bao gồm nguyên tắc đối xử quốc gia quy định các hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi so với hàng hóa cùng loại trong nước. Mục tiêu chính của nguyên tắc này là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa cùng loại, nhằm hạn chế bảo hộ sản xuất trong nước. Việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia nhằm ngăn chặn các nước thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp thuế quan. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, ảnh hưởng từ việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết WTO khá lớn, đặc biệt là đối với nguồn thu ngân sách. Nguồn thu từ thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện đang chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách (khoảng 13%). Khoản sụt giảm này ước tính lên tới 300 triệu USD cho cả giai đoạn 5 năm sau khi gia nhập WTO, tương đương với khoảng 4.800 tỷ đồng. Như vậy, bình quân mỗi năm, Nhà nước giảm thu khoảng

1.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 6-10% số thu thuế nhập khẩu) [36].

Đối với doanh nghiệp trong nước, thuế xuất nhập khẩu giảm xuống nghĩa là mức độ bảo hộ đối với sản xuất trong nước của thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm đi. Điều đó đặt ra đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế cho phù hợp để bù đắp sự suy giảm nguồn thu từ thuế nhập khẩu. Thuế GTGT và thuế TTĐB phải trở thành chỗ dựa chủ yếu về nguồn thu cho Chính phủ. Một trong những cải cách thuế rõ ràng mà các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi thực hiện trong những năm gần đây là đặt thuế GTGT là nguồn thu quan trọng nhất cho NSNN. Các biện pháp mà các nước thường áp dụng để tăng nguồn thu từ GTGT và đảm bảo tính hiệu quả của sắc thuế này là: áp

dụng một mức thuế suất cơ bản và mở rộng đối tượng chịu thuế thay vì nhiều mức thuế suất và thu hẹp đối tượng chịu thuế. Áp dụng một mức thuế suất và không hạn chế đối tượng chịu thuế đang trở thành một xu thế chung của hầu hết các nước có quan hệ kinh tế mở và hệ thống chính sách pháp luật thuế phát triển. Điều này đặt ra đối với Việt Nam khi đã mở cửa nền kinh tế, tham gia tổ chức thương mại thế giới và các hiệp định thương mại với các nước.

2.1.1.2. Đối với hàng hóa, dịch vụ trong nước

- Về đối tượng chịu thuế:

Luật thuế GTGT quy định đối tượng chịu thuế bao gồm hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối tượng quy định tại Điều 4 của luật này (Điều 2 Luật thuế GTGT). Điều đó có nghĩa là đối tượng chịu thuế GTGT quy định gồm toàn bộ hàng hóa, dịch vụ được mua bán, tiêu dùng trên thị trường: hàng hóa, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước.

Tuy nhiên, do tính chất của sản xuất và tiêu dùng ở nước ta hiện nay, mặt khác để nâng đỡ và khuyến khích phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, Luật thuế GTGT có quy định một số loại hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Hàng hóa, dịch vụ được phân chia thành hai nhóm: (i) nhóm hàng hóa và dịch vụ không mang tính chất tiêu dùng; và (ii) nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng mang tính chất xã hội. Điều 5 Luật thuế GTGT năm 2008 quy định 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật thuế GTGT có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2014 đã bổ sung một số loại hàng hóa và dịch vụ vào diện không chịu thuế GTGT, bao gồm: bảo hiểm sức khỏe, các dịch vụ khác liên quan đến con người; các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác; bảo hiểm tàu, thuyền, trang thiết bị và các dụng cụ cần thiết khác phục vụ trực tiếp đánh bắt thủy sản; bảo hiểm cho ngư dân; hoạt động bán tài sản bảo đảm của các khoản nợ của tổ chức nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử

lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam để góp phần thực hiện đề án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC); Phụ tùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học [30].

Việc được bổ sung vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế theo quan điểm của các nhà lập pháp là nhằm mang lại nhiều thuận lợi cho một số doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh những khó khăn về kinh tế hiện nay và dự báo trong những năm tới. Việc mở rộng đối tượng chịu thuế giúp kích thích tiêu dùng, doanh nghiệp bán được nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn; hàng hóa, dịch vụ không bị ứ đọng, đẩy mạnh sản xuất, phát triển nền kinh tế. Ví dụ như, việc đưa các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tàu, thuyền, trang thiết bị và các dụng cụ cần thiết khác phục vụ trực tiếp đánh bắt thuỷ sản, cũng như bảo hiểm cho ngư dân, vào diện không chịu thuế GTGT, sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm có thêm nguồn kinh phí hỗ trợ người dân hạn chế rủi ro để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có thêm động lực bám biển. Việc bổ sung phụ tùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học vào đối tượng không chịu thuế GTGT sẽ tạo thuận lợi, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học công nghệ - động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, quy định về nhóm đối tượng không chịu thuế là quá rộng sẽ gây ra nhiều bất cập. Trong thời gian đầu khi chuyển từ áp dụng thuế doanh thu sang thuế GTGT, việc quy định nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế rộng là phù hợp, vì nó tạo điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế có thể phát triển sản xuất kinh doanh. Nhưng Luật thuế GTGT nếu tiếp tục kéo dài diện không chịu thuế rộng như trên thì hoàn toàn không có lợi, bởi vì:

Thứ nhất, theo mục tiêu đề ra trong chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 thì một trong những nội dung cải cách thuế GTGT đó là sửa đổi,

bổ sung theo hướng giảm bớt nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT và mục tiêu ngân sách. Do vậy, có thể thấy trước nhất, quy định theo xu hướng không thu hẹp hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT là chưa thực sự phù hợp với mục tiêu đã được đề ra trong chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020.

Thứ hai, nhìn về phía quyền lợi của doanh nghiệp thì quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung không đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. Vì theo bản chất của thuế GTGT thì thuế GTGT là thuế đánh trên sự tiêu thụ do người mua phải chịu thuế chứ không phải người bán giống như thuế doanh thu trước đây. Do đó, mọi sự ưu tiên bằng cách quy định càng nhiều đối tượng không chịu thuế chừng nào thì càng gây khó khăn cho doanh nghiệp bán hàng hay cung ứng dịch vụ chừng ấy chứ hoàn toàn không mang lại ưu đãi cho doanh nghiệp. Ví dụ, doanh nghiệp sử dụng hàng hóa, dịch vụ như: thuê văn phòng, điện, nước, điện thoại, internet, văn phòng phẩm… thì doanh nghiệp sẽ mất quyền được khấu trừ đầu vào của hàng hóa, dịch vụ khi mua vào vì căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ chính là số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT khi mua hàng hóa đầu vào. Do vậy, phạm vi đối tượng được miễn thuế rộng và không được thu hẹp thì gây khó khăn hơn về tài chính cho doanh nghiệp.

Thứ ba, thuế GTGT có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Sức tiêu dùng của công chúng phụ thuộc vào quan hệ giữa thu nhập với giá cả hàng hóa, dịch vụ. Tỉ trọng giữa giá cả và thu nhập của người chịu thuế càng cao, càng làm giảm cơ hội tiêu dùng trong công chúng. Nếu xét theo khía cạnh thuế với các chỉ số giá cả, đương nhiên cũng có mối liên quan nhất định. Số tiền thuế GTGT trong giá bán làm thay đổi chỉ số giá cả, lạm phát trong những giai đoạn có sự thay đổi về thuế. Các nhà sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là NNT nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa. Việc mở rộng đối tượng chịu thuế hay giảm thuế cho nhiều đối tượng kích cầu tiêu dùng, kích thích sức mua của

người dân nhưng có thể ảnh hưởng tới nên kinh tế nhất là trong điều kiện hiện nay, nhà nước đang cố gắng kiểm soát lạm phát.

Lạm phát ở nước ta đang dừng ở mức 6-7%/năm [31], một con số không phải là thấp so với chuẩn mực thế giới, dù lạm phát đang được Chính phủ kiểm soát tốt nhưng tỉ lệ lạm phát vẫn có xu hướng tăng. Muốn để nền kinh tế ổn định thì chính sách nhà nước phải mang tính dài hạn, không vì mục tiêu trước mắt mà bỏ qua chiến lược lâu dài. Xác định mối liên quan giữa loại thuế này với chỉ số giá cả, lạm phát có ý nghĩa đối với nhà lập pháp khi quyết định chính sách thuế suất hợp lý trong những giai đoạn nhất định để đảm bảo khi thực hiện thuế GTGT không gây ra những xáo trộn lớn.

Thứ tư, hàng hóa dịch vụ không chịu thuế gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện nghiệp vụ kê toán, xác định khấu trừ thuế. Vì có những doanh nghiệp bán hàng hóa, dịch vụ vừa thuộc đối tượng chịu thuế, vừa thuộc đối tượng không chịu thuế thì phải tốn nhiều thời gian và nhân lực trong việc hạch toán hoặc phân bổ số thuế đầu vào được khấu trù. Điều này làm gia tăng chi phí cho việc tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Hay trường hợp, ví dụ đối với các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm không thuộc diện chịu thuế thì giá thành sản phẩm thường xuyên cao vì giá này thường bao gồm cả số thuế GTGT đã trả khi mua nguyên liệu, máy móc, thiết bị vào (do không có thuế GTGT đầu ra để khấu trừ). Ngược lại, đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế nhưng do nguyên liệu đầu vào thuộc diện không chịu thuế nên không được hưởng lợi thuế khấu trừ, vì vậy khi áp dụng thuế GTGT sẽ phải tăng giá bán hoặc giảm giá mua để đảm bảo nghĩa vụ nộp thuế. Việc quy định đối tượng không chịu thuế có thể là phù hợp với chủ trương về ưu đãi thuế, hỗ trợ ưu tiên một số nhóm hàng hóa, dịch vụ nhưng trên thực tế lại mâu thuẫn với mục tiêu của các nhà làm luật và các nhà hoạch định chính sách ưu đãi này.

Thứ năm, quy định không chịu thuế GTGT quá rộng làm đứt đoạn tính liên hoàn của thuế GTGT, giữa các khâu của quá trình sản xuất và lưu thông.

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 19/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí