chiếm đoạt tiền của ngân sách. Nhiều trường hợp sau khi hoàn thuế, doanh nghiệp bỏ trốn và không thể thu hồi số tiền đã hoàn [4].
Tuy nhiên, thời gian 12 tháng để doanh nghiệp được hoàn thuế đối với doanh nghiệp là dài, doanh nghiệp phải đợi 12 tháng thay vì chỉ 3 tháng như trước kia để được hoàn thuế trong khi khoản thuế GTGT mà doanh nghiệp nộp thay cho người tiêu dùng là do doanh nghiệp ứng trước ra. Do đó càng kéo dài thời gian hoàn thuế thì càng ảnh hưởng lớn đến tài chính của doanh nghiệp. Quy định theo Luật sửa đổi Thuế GTGT mới tính đến lợi ích của Nhà nước khi tăng thời gian giữ khoản thuế được hoàn thuế của doanh nghiệp mà chưa tính đến lợi ích của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng.
2.1.4. Quản lý hóa đơn giá trị gia tăng
Hóa đơn là chứng từ gốc để xác định việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các thể nhân, pháp nhân. Hóa đơn là căn cứ cho doanh nghiệp được phép khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Xác định được vai trò quan trọng của hóa đơn, công tác quản lý hóa đơn nên pháp luật thuế GTGT đã có những điều chỉnh đem lại những kết quả tích cực trong thời gian qua. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định 51/2010/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 89/2002/NĐ-CP về quản lý hóa đơn, ngành Tài chính đã có sự đổi mới cơ bản trong phương thức quản lý hóa đơn. Theo đó, chuyển từ việc cơ quan thuế in hóa đơn bán cho NNT sang để NNT tự in hoặc tự đặt in hóa đơn. Tức là, giao quyền tự chủ về in hóa đơn cho NNT. Cơ quan thuế chỉ in hóa đơn bán cho một số đối tượng đặc thù như các đơn vị sự nghiệp không sử dụng thường xuyên hóa đơn, cá nhân kinh doanh có nhu cầu mua hóa đơn lẻ… Với việc thay đổi này, NNT sử dụng nhiều hóa đơn sẽ rất thuận lợi, không phải mất thời gian để làm các thủ tục mua hóa đơn, hoàn toàn chủ động trong việc in và phát hành hóa đơn. Cơ quan thuế cũng giảm bớt nguồn nhân lực xử lý việc giao nhận và bán hóa đơn; tập trung vào theo dõi, quản lý quá trình phát hành, in ấn và sử dụng hóa đơn. Kế tiếp, năm 2013, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 64/2013/TT-BTC
nhằm kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tạo, lập, quản lý và sử dụng hóa đơn của NNT.
Tuy nhiên, mặc dù các quy định pháp luật về quản lý hóa đơn thời gian qua đã được hoàn thiện đáng kể, tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ và minh bạch hơn cho công tác quản lý hóa đơn của ngành Thuế, đồng thời ngành Thuế cũng tích cực thành tra, kiểm tra truy thu hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế mỗi năm. Tuy nhiên pháp luật thuế GTGT vẫn tồn tại những vướng mắc và những bất cập trong hoạt động quản lý của cơ quan quản lý thuế nên số lượng vi phạm hóa đơn được phát hiện qua thanh tra, kiểm tra còn lớn. Tiến hành kiểm tra hoàn thuế GTGT trong 7 tháng đầu năm 2013 tại các cục thuế: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, An Giang, Long An và Bắc Ninh, lực lượng thanh tra đã phát hiện NNT kê khai thiếu thuế GTGT số tiền gần 66 tỷ đồng [15]. Tại Cục thuế thành phố Hà Nội: Năm 2012 đã xử phạt 1.338 vi phạm về hóa đơn với số tiền phạt là 6.649 triệu đồng. Trong kiểm tra thuế, phát hiện một tỷ lệ không nhỏ là từ việc phát hiện doanh nghiệp sử dụng hóa đơn mua bất hợp pháp, hóa đơn mua khống để hạch toán tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và tăng chi phí được trừ tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, ngành Thuế đã phát hiện nhiều hành vi vi phạm về khác về hóa đơn như: lập hoá đơn không đúng với thực tế của hoạt động mua bán; lập hoá đơn khống để trừ nợ; sử dụng hoá đơn quay vòng, hoá đơn chưa đăng ký phát hành để vận chuyển trên đường...
Nguyên nhân cho tình trạng vi phạm hóa đơn thời gian vừa qua được giải thích như sau:
Thứ nhất, là do quy định pháp luật quản lý thuế GTGT. Hiện nay quy định cho đối tượng tự in hoặc tự đặt in quá rộng. Thông tư 153/2010/TT-BTC quy định chỉ bán hóa đơn do cơ quan thuế đặt in cho doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và một số ít đối tượng khác, còn các doanh nghiệp thì phải tự đặt in hóa đơn hoặc nếu đủ điều kiện
thì sử dụng hóa đơn tự in. Thông tư 64/2013/TT-BTC thay thế Thông tư 153/2010/TT-BTC tiếp tục mở rộng đối tượng tự đặt in hoặc tự in hóa đơn. Theo đó, doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn cũng phải tự đặt in hoặc tự in hóa đơn, cơ quan thuế không bán hóa đơn cho các doanh nghiệp này nữa. Quy định này có mặt tích cực là trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho NNT và nó đặc biệt tốt cho các doanh nghiệp sử dụng số lượng lớn hóa đơn lớn. Tuy nhiên, điều này không phù hợp với doanh nghiệp sử dụng ít hóa đơn, vì như vậy, giá thành hóa đơn sẽ rất cao do quy luật tính kinh tế theo quy mô. Thêm vào đó, với đối tượng được tự đặt in hóa đơn rộng mà không có những điều kiện chặt chẽ để kiểm soát thì nguy cơ xuất hiện hành vi sử dụng hóa đơn giả là rất cao.
Thứ hai, về phía quyền lợi của doanh nghiệp mua hàng, luật quản lý thuế chưa chưa phân biệt rõ cách xác định trách nhiệm của bên bán và bên mua khi xảy ra sai phạm về hóa đơn. Bên mua hàng nếu vô tình mua hàng của bên bán không trung thực sẽ nảy sinh vướng mắc. Trước khi Nghị định 51/2010/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, phần lớn NNT sử dụng hóa đơn do cơ quan thuế phát hành thì việc nhận diện hóa đơn hợp pháp đơn giản hơn. Kể từ năm 2011 đến nay, khi phần lớn NNT tự in hoặc tự đặt in hóa đơn thì có rất nhiều vấn đề. Khi mua hàng, doanh nghiệp cần xác định khi mua hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp bán hàng thì hóa đơn GTGT có hợp pháp hay không. Đó là các vấn đề như: Mẫu hóa đơn, sự tuân thủ về các điều kiện thông báo phát hành hóa đơn, hóa đơn chưa có giá trị sử dụng, hóa đơn hết giá trị sử dụng… Mặc dù theo quy định thì doanh nghiệp phải có thông báo phát hành hóa đơn gửi cho cơ quan thuế và phải dán thông báo phát hành hóa đơn, hóa đơn mẫu tại trụ sở doanh nghiệp, song việc tuân thủ quy định chưa đầy đủ.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 8
- Phương Pháp Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Quyền Được Hoàn Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Thời Hạn Nộp Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Một Số Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Thêm vào đó, ngay cả khi doanh nghiệp có dán thông báo phát hành và mẫu hóa đơn tại trụ sở thì với người mua cũng chưa dám đảm bảo đó không phải là hóa đơn giả. Mặc dù đã có quy định: Tổng cục Thuế có trách
nhiệm căn cứ nội dung phát hành hoá đơn của tổ chức, hộ, cá nhân phát hành, tổ chức xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin về phát hành hoá đơn trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thuế để mọi tổ chức, cá nhân tra cứu được nội dung cần thiết về hoá đơn đã thông báo phát hành của tổ chức, hộ, cá nhân, song cho đến nay trên chuyên mục hóa đơn của Tổng cục Thuế mới chỉ có các văn bản pháp luật về hóa đơn và phần mềm nhập hóa đơn tồn mà chưa có thông tin về phát hành hóa đơn của doanh nghiệp. Việc kiểm tra xem tình trạng hoạt động của NNT chỉ cho biết doanh nghiệp đó đang hoạt động hay đã ngừng hoạt động (có đóng hoặc không đóng mã số thuế) mà không cho biết ngừng từ khi nào... Điều này sẽ gây bất lợi khi bên mua hàng giao dịch với bên bán không thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn. doanh nghiệp mua hàng ví dụ như doanh nghiệp xuất khẩu bị liên lụy, không được hoàn thuế hoặc thậm chí đã hoàn thuế nhưng cũng bị truy thu thuế.
Ví dụ như, năm 2013 vừa qua Tổng cục Thuế có công văn số 7527/BTC-TCT nhằm thiết lập lại trật tự trong lĩnh vực kinh doanh hàng nông sản bằng cách tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế. Nếu như trước đây, cơ quan thuế chỉ xem xét hóa đơn, chứng từ của người cung ứng nguyên liệu trực tiếp cho doanh nghiệp xuất khẩu, xét thấy hợp lệ là doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT, thì giờ doanh nghiệp xuất khẩu phải chờ cơ quan thuế xác minh đến tận người bán đầu tiên. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp lớn, kinh doanh nông sản có uy tín trên thị trường cũng gặp phải khó khăn do doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên liệu. Nông sản của người dân được thu mua và luân chuyển qua nhiều khâu trung gian mới tới tay của doanh nghiệp xuất khẩu.
Nếu như trước đây Bộ Tài chính còn kiểm soát việc in hóa đơn nhưng hiện nay Bộ Tài chính giao cho doanh nghiệp tự in hóa đơn nên các công ty trung gian thu mua nông sản của nông dân mọc lên rồi sau mỗi thương vụ lại đóng cửa làm cơ quan thuế khó xác minh tính trung thực của hóa đơn. Vẫn biết rằng, Công văn 7527/BTC-TCT nhằm chống thất thu thuế cho Nhà nước
ứng phó với tình trạng chiếm dụng tiền hoàn thuế GTGT đối với hàng nông sản xuất khẩu nhưng quy định của cơ quan thuế đã gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính. doanh nghiệp không được hoàn thuế, tiền thuế bị chậm đưa vào kinh doanh khiến doanh nghiệp thiệt hại nhiều mặt, doanh nghiệp phải vay ngân hàng bù vào để tiếp tục kinh doanh với mức lãi suất cao.
Hơn nữa như đối với mặt hàng nông sản, chủ yếu mua gom từ nhiều tỉnh thành, qua nhiều khâu trung gian nên việc kiểm tra trong vòng 40 ngày theo quy định là không khả thi. Cán bộ thuế không thể giải quyết hết các hồ sơ hoàn thuế bắt buộc lại phải yêu cầu doanh nghiệp bổ sung hồ sơ giấy tờ để kéo dài thời gian kiểm tra. Thời gian càng kéo dại thì thời gian được hoàn thuế càng lâu, doanh nghiệp càng thiếu vốn từng ấy. Công văn 7527/BTC-TCT chịu phản ứng từ cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan chức năng, do đó, ngày 15/10/2013, Bộ Tài Chính ban hành tiếp Công văn số 13706/BTC-TCT "sửa đổi, bổ sung Công văn số 7527/BTC-TCT nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc về thủ tục, hồ sơ hoàn thuế GTGT đối với hàng nông-lâm-thủy sản" thì công văn lại quay trở lại với các quy tắc ứng xử chung. Vậy nếu như cộng đồng doanh nghiệp cũng như các Hiệp hội phản ứng không gay gắt thì tình Công văn 7527/BTC-TCT được thực hiện đến bao giờ và doanh nghiệp bao chịu thiệt hại đến bao nhiêu.
2.2. BẢO VỆ QUYỀN LỢI DOANH NGHIỆP THEO LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
2.2.1. Hình thức kê khai thuế giá trị gia tăng
Doanh nghiệp khi thực hiện theo cơ chế tự khai thuế, doanh nghiệp tự kê khai, tự tính số tiền thuế phải nộp trong hồ sơ khai thuế của mình nộp cho cơ quan quản lý thuế, trừ trường hợp cơ quan thuế ấn định thuế hoặc tính thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Hồ sơ khai thuế bao gồm tờ khai thuế và các tài liệu liên quan làm căn cứ để doanh nghiệp khai thuế, tính thuế với cơ quan thuế. doanh nghiệp nộp thuế phải sử dụng đúng mẫu tờ khai thuế và các
mẫu phụ lục kèm theo tờ khai thuế do Bộ Tài chính quy định, không được thay đổi khuôn dạng, thêm, bớt hoặc thay đổi vị trí của bất kỳ chỉ tiêu nào trong tờ khai thuế.
Luật quản lý thuế hiện nay quy định doanh nghiệp được phép kê khai theo quý hoặc theo tháng. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012, Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/07/2013 quy định chi tiết thi hành và Công văn 8355/BTC-TCT, một số đối tượng NNT sẽ được kê khai Thuế GTGT theo quý. Theo đó, khai thuế GTGT theo quý sẽ áp dụng đối với NNT GTGT có tổng doanh thu bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ của năm trước liền kề từ 20 tỷ đồng trở xuống. NNT mới bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ khai thuế GTGT theo tháng. Sau khi NNT hoạt động sản xuất kinh doanh đủ 12 tháng của một năm dương lịch, thì từ năm dương lịch tiếp theo sẽ căn cứ theo mức doanh thu của năm trước liền kề để xác định khai thuế GTGT theo quý hay tháng.
Người nộp thuế có trách nhiệm tự xác định thuộc đối tượng khai thuế GTGT theo tháng hay quý để thực hiện kê khai thuế GTGT. Trường hợp NNT đủ điều kiện khai thuế GTGT theo quý thì không phải kê khai thuế GTGT 7/2013 mà thực hiện kê khai quý III/2013 chậm nhất là 30/10/2013. Trường hợp không đủ điều kiện khai thuế GTGT theo quý thì thực hiện khai 7/2013 như hiện hành. Việc khai thuế GTGT theo quý hay tháng sẽ được ổn định theo chu kỳ 3 năm. Riêng chu kỳ đầu tiên sẽ ổn định từ 01/07/2013 đến 31/12/2016.
Việc áp dụng chế độ khai thuế theo quý thay cho việc khai hàng tháng trước đây đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ đem lại lợi ích không chỉ là giảm tần suất khai thuế từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm, giúp doanh nghiệp bớt thủ tục hành chính và đến cuối quý mới phải nộp thuế GTGT mà doanh nghiệp còn tận dụng được số tiền thuế GTGT (lẽ ra phải nộp
ngay hàng tháng) để dùng làm nguồn vốn kinh doanh tạm thời, giảm được sức ép về vốn trong thời gian chưa đến kỳ hạn nộp thuế.
Tuy nhiên, về yêu cầu đối với NNT theo quy định tại Nghị định 83/2013/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế thì:
Trường hợp người nộp thuế đủ điều kiện và thuộc diện khai thuế giá trị gia tăng theo quý muốn chuyển sang khai thuế giá trị gia tăng theo tháng thì gửi thông báo cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp chậm nhất là cùng với thời hạn nộp tờ khai thuế giá trị gia tăng của 7/2013 [8].
Việc yêu cầu NNT phải gửi thông báo cho cơ quan quản lý trực tiếp là không cần thiết vì nếu NNT đủ điều kiện và thuộc trường hợp kê khai thuế GTGT theo quý chuyển sang khai thuế theo tháng thì khi NNT nộp tờ khai thuế theo tháng đã chứng tỏ rằng NNT muốn nộp thuế theo tháng. Còn đối với NNT muốn nộp tờ khai thuế nhưng không biết mà lại nộp tờ khai thuế theo tháng thì mới phải làm công văn đề nghị cơ quan thuế xóa tờ khai thuế theo tháng. Có như vậy thì doanh nghiệp mới giảm được thủ tục hành chính thuế phải thực hiện.
2.2.2. Phương thức kê khai thuế giá trị gia tăng
Ứng dụng công nghệ thông tin là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập và nâng cao trình độ quản lý nhà nước. Hiện nay, thay vì phương thức kê khai truyền thống, kê khai bằng giấy, chuyển tới tới cơ quan thuế thì kê khai phương thức kê khai qua mạng Internet đang ngày càng phổ biến. Phương thức kê khai qua mạng hay kê khai trực tuyến được phát triển trên cơ sở mô hình quản lý thuế như sau: Ở Tổng cục Thuế có Cục Công nghệ thông tin, ở Cục Thuế có Phòng tin học, ở Chi cục Thuế có đội Kê khai - Kế toán và Tin học. Ở các Đội Kê khai - Kế toán và Tin học có nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai ứng dụng công nghệ thông tin quản lý thuế, tiếp nhận các chương trình ứng dụng và tổ chức cài đặt, hướng dẫn, hỗ trợ cán bộ thuế sử dụng phần mềm phục vụ công tác quản lý tại Chi cục Thuế.
Hiện nay, công nghệ thông tin đã được đưa vào vận hành và ứng dụng trong các chức năng quản lý thuế tương đối tốt, các bộ phận quản lý thuế đã liên thông với nhau, NNT bước đầu được cung cấp một số phần mềm tiện ích phục vụ kê khai thuế, tra cứu thông tin thuế. Mặt khác, hệ thống ứng dụng ngành thuế đã được kết nối với một số ngành hải quan, kho bạc, kế hoạch và đầu tư,.. để trao đổi thông tin phục vụ quản lý ngành thuế và các ngành liên quan. Tính đến giữa năm 2013 theo Tổng cục Thuế, công tác khai thuế điện tử đã được triển khai tại 50 tỉnh, thành phố với 231.220 doanh nghiệp đăng ký tham gia. Điển hình là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ kê khai thuế qua mạng đạt trên 95%, có đơn vị đạt 100% thực hiện kê khai thuế điện tử. Theo tính toán của Tổng cục Thuế đến năm 2013 có 200.000 doanh nghiệp kê khai thuế điện tử, năm 2015, 80% doanh nghiệp sẽ thực hiện kê khai thuế điện tử [22].
Ngoài kê khai nộp thuế qua trực tuyến, theo lộ trình thực hiện nộp thuế điện tử 2014 - 2015, các đơn vị thuế đang triển khai và đưa vào sử dụng cổng thanh toán trực tuyến với ngân hàng để tiếp nhận và xử lý các chứng từ nộp thuế điện tử, ATM, SMS, đồng thời tiếp tục mở rộng cung cấp dịch vụ truy vấn thông tin cho doanh nghiệp qua website, SMS. Đầu tháng 2 năm 2014 vừa qua, Tổng cục Thuế cũng đã thông báo chính thức đưa chức năng nộp thuế điện tử vào triển khai thí điểm tại 3 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và kết nối thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) [21]. Nộp thuế điện tử cho phép NNT lập Giấy nộp tiền vào NSNN trực tiếp trên cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế và được liên kết với Ngân hàng thương mại, Ngân hàng thương mại xác nhận kết quả giao dịch nộp thuế tức thời. Phương thức kê khai và nộp thuế trực tuyến đem lại nhiều lợi ích đối với doanh nghiệp thực hiện nộp thuế, cụ thể là doanh nghiệp sẽ:
- Tiết kiệm chi phí đi lại, thời gian giao dịch; đơn giản thủ tục giấy tờ khi thực hiện nghĩa vụ thuế.