- Nộp thuế tại bất cứ địa điểm nào có kết nối Internet.
- Nộp thuế 24/7, kể cả ngày nghỉ lễ.
- Có thể truy cập cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế để xem, in, tải về các thông báo, giấy nộp tiền đã nộp.
- Được sử dụng các dịch vụ GTGT khác của các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được thì ứng dụng CNTT trong hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế vẫn còn những mặt hạn chế. Cụ thể là:
Trước hết, hệ thống công nghệ thông tin chưa đáp ứng kịp tốc độ thay đổi nhanh về chính sách: do quá trình bổ sung, sửa đổi, cập nhật, hoàn thiện và đưa vào áp dụng các nghiệp vụ quản lý thuế mới diễn ra nhanh chóng, điều đó đòi hỏi hệ thống công nghệ thông tin cũng phải được cập nhật kịp thời tương ứng với những thay đổi trong chính sách. Về phía cơ quan thuế, hiện nay nhiều đơn vị vẫn chưa số hóa được các dữ liệu về chính sách thuế, số lượng hồ sơ doanh nghiệp… nên dẫn đến việc thúc đẩy kê khai tuy số lượng doanh nghiệp kê khai tăng nhưng vẫn còn chậm chạp.
Thứ hai, chất lượng dịch vụ cho phép kê khai và nộp thuế còn hạn chế do các doanh nghiệp thường có thói quen gần đến sát ngày hết hạn mới kê khai và nộp thuế qua mạng, vì vậy nguy cơ dẫn đến việc nghẽn mạng, ảnh hưởng đến công tác triển khai hệ thống quản lý thuế qua mạng internet và có nhiều rủi ro khi khối lượng doanh nghiệp truy cập khổng lồ.
Thứ ba, trình độ tin học và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý của cán bộ thuế còn thấp, cán bộ thuế chưa thành thạo các ứng dụng công nghệ thông tin do môi trường làm việc chưa khuyến khích được cán bộ thuế sử dụng các dịch vụ công nghệ thông tin và tâm lý ngại thay đổi phương thức làm việc.
Ở những quốc gia phát triển, công nghệ thông tin được đưa vào ứng dụng một cách hiệu quả, dịch vụ thuế điện tử được tổ chức và triển khai tương
đối phố biến. Điển hình như ở Hàn Quốc, năm 1971, Trung tâm xử lý dữ liệu quốc gia về thuế được thành lập và hoạt động cho đến nay đã giảm đáng kể gánh nặng công việc cho cán bộ thuế cũng như hỗ trợ, tương tác đối với doanh nghiệp nộp thuế, giảm thủ tục kê khai, nộp thuế và giải đáp vướng mắc cho doanh nghiệp nhanh gọn. Các dịch vụ thuế điện tử (e-Tax services) được triển khai áp dụng bao gồm kê khai thuế điện tử (e-Filing) nộp thuế điện tử (e-Payment) và cơ quan Dịch vụ Thuế Quốc gia Hàn Quốc đã thiết lập diễn đàn đối thoại doanh nghiệp trên "trang thông tin điện tử" của mình để kịp thời tiếp cận các gợi ý, các yêu cầu liên quan đến chính sách, chế độ thuế. Hỗ trợ NNT của cơ quan thuế Hàn Quốc còn được mở rộng trong triển khai dịch vụ thuế tại nhà (Home Tax Service - HTS) dưới dạng giao dịch điện tử qua các ứng dụng được cung cấp qua mạng Internet cho phép NNT sử dụng dịch vụ thông qua mạng Internet, được cấp chữ ký điện tử, kê khai và nộp thuế điện tử, được trung tâm tư vấn qua điện thoại và được cung cấp hệ thống phân xử khiếu nại [24, tr. 57].
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Quyền Được Hoàn Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Bảo Vệ Quyền Lợi Doanh Nghiệp Theo Luật Quản Lý Thuế
- Một Số Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 14
- Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
So với việc phải đến trực tiếp tại các cơ quan thuế để thực hiện việc kê khai thuế thì việc kê khai và nộp thuế điện tử trở nên đơn giản và thuận tiện hơn rất nhiều. Dịch vụ thuế điện tử cho phép NNT làm việc với cơ quan thuế từ nhà hoặc từ nơi làm việc của họ, thực hiện nộp thuế bằng hình thức chuyển khoản điện tử mà không cần phải đến cơ quan thuế và ngân hàng để nộp thuế. Do áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quản lý thuế và hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế mà ngành thuế Hàn Quốc đã đạt được mục tiêu quan trọng là gia tăng chất lượng phục vụ của cơ quan thuế, gia tăng mức độ hài lòng và sự tin tưởng của doanh nghiệp đối với các hoạt động quản lý nhà nước. Việc vận dụng đưa công nghệ thông tin vào quản lý hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế đã đem lại lợi ích cho doanh nghiệp: giảm các thủ tục, chi phí, phù hợp quá trình hội nhập kinh tế thế giới, góp phần thay đổi cơ bản về thủ tục kê khai thuế, đem lại hiệu quả lớn cho cả doanh nghiệp và cơ quan thuế.
2.2.3. Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng
Điều 49 Luật Quản lý thuế quy định cho phép NNT được xin gia hạn nộp thuế trong các trường hợp: "Bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ; Không có khả năng nộp thuế đúng hạn do gặp khó khăn đặc biệt khác theo quy định của Chính phủ" [28]. Quy định này là biện pháp trợ giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, tiếp tục phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những năm vừa qua, Chính phủ nhiều lần ban hành quy định về gia hạn nộp thuế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, kích thích doanh nghiệp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh như Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg, Quyết định số 54/2011/QĐ-TTg, Thông tư Hướng dẫn thực hiện việc miễn, giảm, gia hạn một số khoản thu NSNN theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và gần đây nhất là Thông tư số 16/2013/TT-BTC ngày 08/02/2013 Hướng dẫn thực hiện việc gia hạn, giảm một số khoản thu NSNN Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Thông tư 16/2013/TT-BTC quy định gia hạn 6 tháng thời hạn nộp thuế GTGT (GTGT) đối với số thuế GTGT phát sinh phải nộp của tháng 1, tháng 2, tháng 3 năm 2013 (không bao gồm thuế GTGT ở khâu nhập khẩu) đối với các doanh nghiệp đang thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Đối tượng được gia hạn theo Thông tư 16 bao gồm:
- Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ;
- Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến: nông sản, lâm sản, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử; xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội;
- Doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở và doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng: sắt, thép, xi măng, gạch, ngói [25].
Về thời gian gia hạn, Thông tư quy định rõ: Các doanh nghiệp thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế GTGT thực hiện kê khai, nộp Tờ khai thuế GTGT tháng 1, tháng 2, tháng 3 năm 2013 theo quy định nhưng chưa phải nộp ngay số thuế GTGT phải nộp phát sinh trên Tờ khai thuế GTGT đã kê khai
Do thuế GTGT là loại thuế gián thu, thuế nằm trong giá bán hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng là đối tượng chịu thuế khi mua hàng hóa, dịch vụ và người sản xuất, kinh doanh thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế thay cho người tiêu dùng khi bán hàng hóa, dịch vụ. Nghĩa vụ nộp thuế GTGT là nghĩa vụ bắt buộc. Vì vậy việc gia hạn nộp thuế GTGT mang lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp thuộc đối tượng được phép gia hạn nộp thuế GTGT. Nếu như trước đây, giải pháp gia hạn nộp thuế chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có lãi thì nay mọi doanh nghiệp dù lãi hay lỗ đều được phép cho gia hạn. Giải pháp này cân bằng quyền lợi được hưởng cho tất cả các doanh nghiệp có tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường. Đối với doanh nghiệp gặp khó khăn không thể nộp thuế đúng hạn thì giải pháp gia hạn nộp thuế là một giải pháp "cứu cánh" bởi vì thông thường nếu doanh nghiệp không có khả năng nộp thuế, quá hạn thì doanh nghiệp sẽ bị phạt chậm nộp, nếu doanh nghiệp muốn nộp thuế đúng hạn lại phải vay ngân hàng. Lúc này, khó khăn càng cản đường doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp nợ thêm nợ. Vì thế nếu không có giải pháp gia hạn nhiều doanh nghiệp đành chấp nhận chịu phạt chậm nộp thuế vì tiền phạt chậm nộp thuế còn thấp hơn so với vay từ ngân hàng (theo Khoản 1 Điều 106 Luật Quản lý thuế sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định phạt chậm nộp từ 0,05% - 0,07% trong khi lãi suất vay từ ngân hàng đều từ 15% trở lên). Việc gia hạn nộp thuế GTGT đã giúp doanh nghiệp dùng số tiền thuế để tạo nguồn vốn sản xuất kinh doanh, giảm thiểu chi phí trả lãi tiền vay ngân hàng tương ứng, kết quả là chi phí cho sản phẩm sẽ giảm tương ứng, chi phí sản xuất kinh doanh giảm đáng kể, hoạt động sản xuất và tiêu thị tăng, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trước khi sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý Thuế, Điểm c Khoản 1 Điều 24 Nghị định 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 sửa đổi Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 đã có quy định gia hạn trong trường hợp "Do chính sách của Nhà nước thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh
của người nộp thuế". Tuy nhiên đến khi Luật Quản lý thuế năm 2012 ban hành thì trường hợp này chưa được quy định trong Luật Quản lý thuế mà được quy định trong Nghị định 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 và Thông tư 156/2013/TT-BTC quy định trường hợp NNT được gia hạn khi "người nộp thuế phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh" [8].
2.2.4. Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp
2.2.4.1. Tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp
Tuyên truyền, hỗ trợ NNT là một nội dung quan trọng, là khâu đột phá của toàn bộ lộ trình cải cách và hiện đại hóa ngành thuế trong giai đoạn hiện nay. Công tác này có tầm quan trọng đặc biệt, không những nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của NNT, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của ngành, mà còn tạo mối quan hệ gắn kết giữa cơ quan thuế và NNT. Mối quan hệ gắn kết giữa cơ quan thuế và NNT có ý nghĩa tích cực trong việc phát huy tác dụng các chính sách pháp luật của Nhà nước. Để doanh nghiệp tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế, họ cần phải được nắm vững các quy định về thuế. Thông qua việc nghiên cứu, thực hiện chính sách thuế, doanh nghiệp không những có thể thực hiện nghiêm chỉnh chính sách thuế, hoạch định phương hướng kinh doanh hiệu quả mà còn có những phản hồi những thông tin bất cập của hệ thống chính sách thuế để Nhà nước hoàn thiện, sửa đổi. Thực tiễn cho thấy phần lớn những điều chỉnh chính sách thuế đều xuất phát từ sự phản hồi thông tin từ doanh nghiệp thông qua quá trình thực hiện.
Nhiệm vụ tuyên truyền hỗ trợ thuế do các cơ quan thuế đảm nhiệm. Cơ quan quản lý thuế vừa là đối tượng quản lý thuế vừa là đối tượng cung cấp dịch vụ hành chính công của cơ quan thuế. Tuy nhiên khác với khách hàng trong khu vực tư bởi doanh nghiệp không được lựa chọn người cung cấp dịch vụ
hành chính thuế ngoài cơ quan quản lý thuế của Nhà nước. Do đó, sự hài lòng của doanh nghiệp đôi khi bị hạn chế bởi công tác tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp của cơ quan thuế. Ví dụ như trước đây, doanh nghiệp thường không có mấy thiện cảm với cơ quan thuế, với cán bộ thuế; từ đó tâm lý sợ thuế, nợ thuế, trốn thuế khiến NSNN bị thất thu, áp lực công việc quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế đè nặng lên cơ quan thuế. Nhưng từ khi chuyển sang cơ chế "tự khai, tự nộp thuế", doanh nghiệp chủ động trong kê khai nộp thuế nên trình độ hiểu biết về thuế, ý thức pháp luật về thuế được nâng cao. Do đó với cơ chế tự khai tự nộp thuế thì doanh nghiệp cần phải hiểu đầy đủ các quy định, chính sách về thuế và các thông tin liên quan đến thuế nên yêu cầu phổ biến pháp luật, giải đáp thắc mắc của doanh nghiệp đối với cơ quan thuế đặt lên hàng đầu trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế GTGT của doanh nghiệp.
Ở nước ta, sau khi ngành Thuế chuyển đổi từ mô hình quản lý chuyên quản sang mô hình quản lý chủ yếu theo chức năng, kết hợp quản lý theo đối tượng thì bộ máy tuyên truyền và hỗ trợ NNT được tổ chức theo hệ thống dọc và chuyên trách từ cấp Trung ương đến địa phương ở 3 cấp:
- Cấp 1: Tổng cục Thuế có Ban Tuyên truyền và Ban Hỗ trợ NNT- từ năm 2009 hợp nhất thành Vụ Tuyên truyền Hỗ trợ NNT - thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch, chỉ đạo thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT đối với toàn Ngành.
- Cấp 2: Cục Thuế có Phòng Tuyên truyền và Hỗ trợ NNT thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch và triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT thuộc phạm vi địa phương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý.
- Cấp 3: Các Chi cục Thuế có Đội Tuyên truyền và Hỗ trợ NNT thực hiện công tác nghiệp vụ nội bộ và tuyên truyền, hỗ trợ NNT thuộc phạm vi địa bàn Chi cục quản lý.
Ngành Thuế đã từng bước xây dựng được đội ngũ công chức có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm và kỹ năng tuyên truyền, hỗ trợ đáp ứng
yêu cầu nghiệp vụ đặt ra đối với công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Trên cơ sở quy định mới của Luật Thuế GTGT, Luật Quản lý Thuế và các văn bản hướng dẫn về giảm thủ tục kê khai, nộp thuế triển khai kê khai nộp thuế điện tử, các bộ phận tuyên truyền và hỗ trợ NNT tích cực hướng dẫn, giải đáp thắc mắc từ phía doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Cơ quan quản lý thuế các cấp đa dạng các hình thức thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế như: tổ chức tuyên truyền, phổ biến tập trung; tổ chức các buổi tập huấn, đối thoại với doanh nghiệp; phát tài liệu hướng dẫn thủ tục thực hiện thuế GTGT; niêm yết thông tin tại Trụ sở cơ quan quản lý thuế; giải đáp thắc mắc trực tiếp hoặc bằng văn bản, điện thoại.
Ngoài ra cơ quan quản lý thuế các cấp đã, đang triển khai và cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như: cung cấp phần mềm ứng dụng công nghệ kê khai thuế, nộp thuế trực tuyến. Nhờ đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ thông tin vào các khâu quản lý, chất lượng phục vụ doanh nghiệp đang từng bước tăng rõ rệt. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, đến tháng 6- 2013, ngành Thuế đã thực hiện mở rộng kê khai thuế qua mạng Internet tại 50 tỉnh, thành phố với 265.114 doanh nghiệp; trong đó riêng khối doanh nghiệp lớn, đã có 91% số doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế điện tử [16]. Từ năm 2014, cơ quan quản lý thuế đã liên kết với Ngân hàng thương mại thí điểm triển khai cho phép doanh nghiệp nộp thuế điện tử.
Tuy nhiên, hoạt động của bộ phận tuyên truyền, hỗ trợ NNT vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của NNT, mức độ hài lòng còn thấp. Một trong những nguyên nhân pháp luật chưa đi vào cuộc sống đó là trao quá nhiều quyền cho Cơ quan hành pháp giải thích luật [17]. Việc tư vấn hỗ trợ, việc trả lời văn bản chính sách thuế vẫn mang tính chất cơ quan có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở chức năng nhiệm vụ và địa vị pháp lý của mình nên không tránh khỏi tình trạng thiếu khách quan, duy ý chí và chưa thực sự đứng về phía doanh nghiệp. Nếu cơ quan quản lý thuế giải thích đúng thì không sao nhưng nếu