có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý thanh khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã được xây dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ nhạt. Các công cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình huống, rủi ro tập trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng xây dựng kế hoạch (giả định) đối phó tình trạng khủng hoảng thanh khoản, nếu có xây dựng thì cũng chưa được luyện tập và cập nhật thường xuyên, liên tục.
Về quản trị rủi ro lãi suất: Các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được chính sách lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro và hoạt động của tổ chức tín dụng, chính sách lãi suất hiện nay của các tổ chức tín dụng rất dễ bị dẫn dắt bởi các yếu tố thị trường; chưa lượng hoá được rủi ro lãi suất cho cơ cấu tài sản nợ - có hiện tại của tổ chức tín dụng. Hệ thống thông tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro lãi suất. Hầu hết các tổ chức tín dụng đều chưa có các công cụ nhằm phân tích độ nhạy của lãi suất để xác định ảnh hưởng của việc thay đổi lãi suất đối với kết quả hoạt động kinh doanh khi thị trường thay đổi.
Về tuân thủ Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: Việc xác định nhóm các khách hàng có liên quan hầu như chưa thể thực hiện và chưa có công cụ để thực hiện. Hầu hết các tổ chức tín dụng không phản ánh chính xác báo cáo phân tích thang đáo hạn trong 7 ngày làm việc tiếp theo; thường sử dụng số liệu chưa kiểm toán để báo cáo Ngân hàng Nhà nước và không báo cáo lại sau khi đã có số liệu kiểm toán. Một số tổ chức tín dụng sử dụng số liệu ước tính để tính toán tài sản có rủi ro thay vì số liệu thống kê thực tế.
Từ đó tôi xin đưa ra các giải pháp sau đây nhằm hạn chế các rủi ro trong hoạt động hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt nam:
Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: cần phải có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và toàn bộ các pháp nhân trực thuộc) và hoạt động của riêng ngân hàng. Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ này không phát huy tác dụng trong thời gian qua. Cách xác định tỷ lệ này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào thời gian gốc ban đầu của khoản cho vay, trong khi thời gian vay của nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng). Để duy trì tỷ lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo điều kiện thị trường. Bổ sung vào giới hạn góp vốn mua cổ phần tỷ lệ biểu quyết của tổ chức tín dụng trong tổ chức kinh tế khác và khống chế mức góp vốn tối đa của tổ chức tín dụng vào một tổ chức kinh tế.
Tuân thủ chặt chẽ các quy định, quyết định hiện tại như Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/2005, Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của ngân hàng nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng.
Tiến đến các chuẩn mực quốc tế trong các quy định về quản lý rủi ro và an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hiện tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đang thực hiện Hiệp định Basel I theo các hướng dẫn từ Ngân hàng Nhà nước và tiến đến thực hiện Basel II vào năm 2010. Do đó các ngân hàng cần chuẩn bị cho mình các điều kiện và tiêu chuẩn để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế theo các cam kết trong lĩnh
vực tài chính trong sân chơi WTO trước những sức ép cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng ngoại đang và sẽ hoạt động tại Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Bảo Toàn Vốn Tự Có Của Các Nhtmcp Vn
- Đánh Giá Chung Về Những Thành Tựu Và Tồn Tại Trong Công Tác Bảo Toàn Và Phát Triển Vốn Tự Có Của Các Nhtmcp
- Các Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Bảo Toàn Và Phát Triển Vốn Tự Có Của Các Nhtmcp Việt Nam
- Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 8
Xem toàn bộ 69 trang tài liệu này.
3.1.3 Tăng quy mô hoạt động: nằm trong lộ trình tăng vốn theo quy định 141/2006/NĐ-CP ngày 26 tháng 11 năm 2006, các ngân hàng thương mại cổ phần đang chay đua để tăng vốn điều lệ đúng theo lộ trình của Chính phủ. Xét trong giai đoạn bùng nổ trở lại của thị trường chứng khoán Việt Nam thì khả năng tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần dễ dàng hơn thông qua kênh phát hành thêm cổ phiếu. Việc tăng vốn một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu vốn tối thiểu của Ngân hàng nhà nước, một mặt cũng làm tăng thêm khả năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong điều kiện các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Chính phủ càng mở rộng thì nhu cầu vốn của các doanh nghiệp càng nhiều và các ngân hàng thì đua nhau tăng lãi suất để thu hút khách hàng.
Theo đó, đối với từng ngân hàng thương mại:
Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn (phát hành cổ phiếu, trái phiếu..) một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi ngân hàng trong từng giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn chế các nhược điểm của từng biện pháp.
Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ xung, kết hợp với việc cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho ngân hàng...làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại.
Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị; Các ngân hàng thương mại Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tất cả nhằm mục đích làm tăng uy tín của ngân hàng_Điều này rất quan trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo.
3.1.4 Thông tin cần được minh bạch, rò ràng: trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, do các đối tác còn chưa biết gì về nhau thì những thông tin được công bố rộng rãi ra bên ngoài một cách trung thực và chính xác là những lời mời chào đầu tư hiệu quả và thành công nhất. Do những đặt thù về cơ chế trong quá khứ và văn hóa kinh doanh của người Việt Nam thì bản thân các ngân hàng thương mại cần phải công khai hơn tình hình tài chính của mình trước công chúng và các nhà đầu tư. Việc công khai không những về các thông tin được công bố mà còn các chuẩn mực kế toán, ban quản trị điều hành, chế độ kiểm soát rủi ro, quy trình ra quyết định đầu tư và thi hành,…cần được minh bạch trong các kỳ đại hội cổ đông.
3.2 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
3.2.1. Phát triển thị trường vốn: thị trường vốn ở nước ta đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, các thể chế và cấu trúc thị trường đang từng bước được hoàn thiện. Tuy đã đạt được những kết quả khả quan ban đầu nhưng thị trường này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày càng phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam. Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu vực. Vừa qua, Bộ tài chính đã trình Chính phủ đề án phát triển thị trường vốn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiện đề án này đang được Chính phủ xem xét và sẽ quyết định phê duyệt trong thời gian tới…
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt Nam đã thiết lập được hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước như cơ chế vận hành, cơ quan quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các trung gian hoạt động trên thị trường. Quy mô của thị trường vốn có bước phát triển khá mạnh: Tính đến hết năm 2006 đã có 3.400 doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hóa với tổng giá trị vốn Nhà nước bán ra là 35.500 tỷ đồng; 26.000 công ty cổ phần thành lập mới với số vốn cổ phần huy động khoảng 80.000 tỷ đồng; hơn 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp được phát hành với tổng dư nợ trên 109.000 tỷ đồng. Trong đó, 193 loại cổ phiếu đã thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch với tổng vốn điều lệ là 20.000 tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường tại thời điểm 31/12/2006 là 221.156 tỷ đồng (bằng 22,4% GDP năm 2006); hệ thống các định chế trung gian thị trường đã được thiết lập. Ngoài số lượng các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ cũng tăng mạnh. Số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị trường chứng khoán ngày càng tăng.
Bên cạnh những kết quả đó, thị trường vốn còn gặp trở ngại khi phát triển: Tính thống nhất trong điều hành các chính sách liên quan còn hạn chế như điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất; chính sách tham gia của các ngân hàng, tổ chức tín dụng vào thị trường vốn; chính sách đầu tư gián tiếp; cải cách doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công…Quy mô thị trường vốn còn nhỏ khi nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế cho thị trường chưa nhiều. Việc phát hành cổ phiếu mới của các công ty cổ phần trực tiếp trên thị trường còn ít; Giá trị vốn Nhà nước bán ra tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa chưa nhiều (hiện chiếm khoảng 20% tổng giá trị vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp). Hiện nay, thị trường cổ phiếu tự do thiếu sự kiểm soát của Nhà nước đang chiếm thị phần lớn. Cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa có quy mô lớn hoặc lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, điện lực, viễn thông, hàng hải vẫn tự do giao dịch trên thị trường không chính thức, không công khai, minh bạch…đã tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và gây ra những bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Trong khi đó, sự tham gia ồ ạt của nhiều nhà đầu tư, hoạt động đầu tư theo phong trào trong khi nguồn cung hạn chế đã làm mất cân đối về cung cầu chứng khoán, đẩy giá chứng khoán vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp, gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị
trường có tổ chức và thị trường tự do. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng vẫn ở hình thức truyền thống. Một khối lượng lớn tài sản đang tồn tại ở dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán hóa. Do vậy, khả năng huy động vốn, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn còn hạn chế.
Từ những kết quả và hạn chế trên, tôi xin đưa ra các giải pháp để phát triển thị trường vốn trong thời gian tới, bao gồm các nhóm giải pháp sau:
- Cần nhanh chóng hoàn thiện về thể chế, đảm bảo tính công khai, minh bạch và có sự kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ thị trường; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính. Bên cạnh đó, thị trường vốn cần phát triển đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ hoàn chỉnh cơ bản về cấu trúc thị trường vốn và đến năm 2020 sẽ phát triển tương đương với các nước trong khu vực. Một số chỉ tiêu cụ thể được dự báo đến năm 2010 như giá trị vốn hóa thị trường bằng 50%GDP, huy động vốn cho đầu tư phát triển qua thị trường vốn đạt khoảng 16%GDP; hai tỷ lệ tương ứng đến năm 2020 dự báo sẽ là 70% và 30%. Mặc dù thị trường vốn phát triển khá nhanh song quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao, hàng hóa chưa đa dạng; tính minh bạch công khai còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát thị trường, điều hành vĩ mô còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát còn yếu và thiếu. Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn nhiều rủi ro bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Hoạt động đầu tư thường theo phong trào trong khi nguồn cung còn hạn chế, xảy ra hiện tượng mất cân đối cung cầu chứng khoán làm cho giá cổ phiếu vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp và đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu phát triển thị trường vốn như đã đề ra cho giai đoạn năm 2010 đến năm 2020 thì trước hết cần phát triển số lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Điều này được cụ thể hóa bằng việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước và gắn với niêm yết thị trường chứng khoán; thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết đồng thời tiến hành rà soát để có thể bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các công ty mà Nhà nước không cần nắm cổ phần chi phối. Mặt khác, cần đa dạng hóa các loại hình trái phiếu trên thị trường trái phiếu như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu đô thị,…phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh như: quyền chọn mua, bán chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm từ chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ…
- Thứ hai, thị trường vốn cần phải phát triển theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc, được quản lý giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với các thị trường trong khu vực và quốc tế. Để làm được điều đó cần sớm hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm tạo kênh huy động vốn; hình thành và phát triển thị trường tương lai cho các công cụ phái sinh; thị trường chứng khoán hóa cho các khoản cho vay trung – dài hạn của ngân hàng…hay việc phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều loại hình doanh nghiệp.
- Thứ ba, cần phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường bằng cách thúc đẩy tăng số lượng, chất lượng hoạt động và năng lực hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ…cũng như nghiên cứu thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài vào hoạt động.
- Thứ tư, phát triển nhà đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán,…tham gia vào thị trường. Đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư để thu hút vốn cư dân tham gia; khuyến khích các việc thành lập quỹ
đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam theo quy
định.
- Thứ năm, phải nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước; nghiên cứu các biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ trong những trường hợp cần thiết trên nguyên tắc được thể chế hóa, công bố công khai cho nhà đâu tư và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh của hệ thống tài chính.
(Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam)
3.2.2 Phát triển thị trường trái phiếu – thị trường nợ: thị trường trái phiếu Việt Nam bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (bao gồm trái phiếu ngân hàng thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá trị khác. Đương nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về qui mô và còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính nước ngoài.
Vào cuối năm 2006, có khoảng 375 loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, với tổng mệnh giá là 5 tỷ USD. Các loại trái phiếu chính phủ chiếm tỷ lệ chủ yếu của toàn thị trường. Các số liệu của Trung tâm giao dịch chứng khoán cho thấy nghiệp vụ này tạo ra khoảng 78% giá trị của toàn thị trường trong khi tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu chỉ tạo ra khoảng 19% giá trị. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của trái phiếu chính phủ với tư cách là một nguồn vốn đầu tư.
Trong 3 loại trái phiếu đã được phát hành và đang giao dịch tại Việt Nam, bao gồm trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp thì khối lượng trái phiếu chính phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần, trong khi đó trái phiếu địa phương là 10%, và trái phiếu doanh nghiệp là 9%.(1)