Các Nghiên Cứu Về Thực Trạng Lao Động, Việc Làm Nông Thôn Ở Khu Vực Nông Thôn Có Thu Hồi Đất Nông Nghiệp


thời vụ, ngành nghề phát triển chậm, nên sau khi thu hoạch mùa màng, nhiều người không có việc làm, phần lớn phải đi tìm việc ở các đô thị và khu vực tập trung công nghiệp (có địa phương chỉ còn 20 - 30%, trong đó chủ yếu là người già và trẻ em). Các nghiên cứu cũng đi sâu phân tích sâu phương diện chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng đời sống nông dân. Bài viết cho rằng để làm tăng thêm hiệu quả của những chủ trương, chính sách, đề án của Đảng và Nhà nước về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng cuộc sống thì dạy nghề cho nông dân là một giải pháp cần phải đặc biệt quan tâm. Đồng thời tác giả cũng đã đưa ra một số những khó khăn, thách thức gặp phải khi thực hiện chủ trương này. Đồng thời cũng tìm ra những hạn chế trong vấn đề này và đề xuất giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn đến năm 2020,

Như vậy các đề tài nghiên cứu ở quy mô lớn nhỏ khác nhau đã mô tả và phân tích khá sâu sắc vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Những thành tựu đạt được và những hạn chế, khó khăn trong quá t nh đào tạo nghề cho lao động nông thôn để đề xuất hoàn thiện chính sách. Các công trình nghiên cứu đã tập trung phân tích quá trình đào tạo nghề cho nông thôn theo các chương trình dự án của Nhà nước. Ngoài những kết quả được tổng kết về công tác đào tạo nghề cho người dân nông thôn thì các các đề tài cũng nêu bật những mặt còn hạn chế trong quá trình đào tạo. Những bất cập đó là những quá trình đào tạo còn mang nhiều tính hình thức, chất lượng chưa cao, nghề nghiệp được đào tạo chưa thực sự gắn với những biến đổi của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đồng ý với các phân tích của các đề tài. Thêm vào đó trong đề tài chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn hiệu quả của quá trình hỗ trợ nông dân đào tạo nghề.

Tuy nhiên các phân tích thể hiện tầm vĩ mô bên cạnh đó mới chỉ đánh giá công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Các đề tài chưa thực sự đi


sâu vào phân tích những biến đổi từ quá trình đào tạo nghề. Đặc biệt chưa phân tích mảng đào tạo nghề cho người dân bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Bên cạnh đó tính bền vững của các khóa tập huấn đào tạo nghề, hiệu quả của các công tác này trong những năm tiếp theo cũng chưa thực sự được phân tích một cách rõ ràng. Đồng thời thái độ, quan điểm, đánh giá của người dân trong công tác đào tạo nghề chưa thực sự được phân tích kỹ lưỡng.

Tuy nhiên, nhận xét thấy có một điểm chung trong các khảo sát, nghiên cứu trên tập trung mô tả đào tạo nghề cho lao động nông thôn mà chưa có phân tích về giới trong đào tạo nghề. Không làm rõ tỷ lệ giới trong đào tạo nghề.

1.4. Các nghiên cứu về thực trạng lao động, việc làm nông thôn ở khu vực nông thôn có thu hồi đất nông nghiệp

Ở đề tài Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tiến hành trong khuân khổ dự án IAE- MISPA/ hợp đồng nghiên cứu số 2005/IAE/SF/002, Nghiên cứu tiến hành năm 2006 do nhóm tác giả Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Lưu Đức Khải.

Phần đầu của đề tài đi vào mô tả sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Mông Cổ, Trung Quốc để so sánh đối chiếu với Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

Trong đề tài này nhóm tác giả tập trung phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam và các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch đó trong thời gian 15 năm kể từ 1990 đến 2006, Đây là một tác phẩm quan trọng để Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của các nước.

Trong nước các đề tài rất chú trọng tới lao động việc làm của người dân nông thôn. Các tác giả đã đi sâu phân tích theo nhiều khía cạnh khác nhau.

Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất nông nghiệp Nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội và xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc - 6

Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn – thực trạng và giải pháp” Nguyễn Văn Nam (2009), “Việc làm của nông dân sau khi thu hổi đất”;


Trần Quang Tuyến (2014), “Đất đai,việc làm phi nông nghiệp và mức sống hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô”

Vũ Hào Quang, Trương Ngọc Thắng, Vũ Thùy Dương (2013), “Biến đổi xã hội nông thôn trong quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa”, trong đề tài này nhóm tác giả đã phân tích quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa tác động đến làm biến đổi xã hội nông thôn. Cụ thể, quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa làm biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, biến đổi quan hệ lao động nông thôn.

Tại chương 4 của đề tài có phân tích vấn đề dư thừa lao động, thất nghiệp do chuyển đổi đất nông nghiệp thành công nghiệp. Tình trạng thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp đã làm cho nông dân thiếu việc làm, thất nghiệp và dư thừa lao động.

Nguyễn Hữu Dũng (2006), “Nghiên cứu thực trạng thu nhập, đời sống và việc làm của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu cộng đồng và lợi ích quốc gia”. Trong nghiên cứu tác giả đã trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn, thực trạng, quan điểm và giải pháp về thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia

Các luận án nghiên cứu về quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của người dân nông thôn sau khi thu hồi đất như: Nguyễn Văn Nhường (2011), “Chính sách An sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp”. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của đô thị hóa đối với lao động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội” Trần Thị Lan (2013), “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”; Phạm Thị Hương (2013), “Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất vùng Đồng Bằng Sông Hồng


trong quá t nh CNH- HDH nông nghiệp, nông thôn”; Khúc Thị Thanh Vân (2102) “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ ở nông thôn đồng bằng Sông Hồng hiện nay”. Các luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hồi đất nông nghiệp. Đặc biệt là tác động của nó đến các nhóm lợi ích có liên quan. Đánh giá đúng thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và tác động của nó đến các nhóm lợi ích ở các địa bàn được nghiên cứu. Rút ra những thành tựu, những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Đề xuất định hướng thu hồi đất nông nghiệp và các giải pháp giải quyết các xung đột lợi ích trong quá trình chuyển đổi đó. Luận án đã đi sâu nghiên cứu các cơ sở khoa học của sự chuyển đổi, làm rõ các vấn đề kinh tế xã hội nả y sinh, cơ sở của sự thay đổi lợi ích và lợi ích nhóm; chỉ rõ các can thiệp vĩ mô để đảm bảo hài hòa về lợi ích giữa các nhóm liên quan đến quá trình chuyển đổi.

Quá trình thu hồi đất nông nghiệp vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra những thách thức đối với người dân nông thôn trong quá trình sinh kế. Người dân không còn tư liệu sản xuất bắt buộc họ phải tìm kế sinh nhai mới. Quá trình này gần như là một quá trình bị động khiến người dân khó có thể chuẩn bị kịp về cả tâm thế thái độ cũng như những kỹ năng cần thiết để có thể thích ứng với điều kiện mới.

Nguyễn Bình Giang (2012),“Tác động xã hội vùng các khu công nghiệp ở Việt Nam”. Cuốn sách đã khái quát sự phát triển các KCN tại Việt Nam, đến năm 2010 cả nước đã có 173 KCN đi vào hoạt động, trung bình mỗi KCN xấp xỉ 253 ha, vùng Đông Nam Bộ có diện tích KCN lớn nhất cả nước 33,290 ha. Các KCN đã đem đến nhiều tác động tích cực như khoản đền bù đất cao hơn khi sử dụng đất nông nghiệp, nếu sản xuất đất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc mỗi năm nông dân thu được 900 nghìn đồng/sào, nông dân nhận tiền đền bù đất 30 triệu, bằng 50 vụ lúa, 25 năm canh tác của người nông dân, hoặc nông dân có điều kiện về việc làm trực tiếp và gián tiếp từ KCN, đem lại


thu nhập cao, cải biến đời sống, ví dụ sau thu hồi đất, số nhà mái bằng tăng 31,1%, nhà hai tầng 5,7%, các tiện nghi tăng 2-3 lần so với trước thu hồi. Nhưng mặt tiêu cực của việc xây dựng các KCN cũng không nhỏ, tác động đến thu nhập, việc làm và môi trường sống, môi trường xã hội, vì vậy cần giải quyết vấn đề đó. Cuốn sách mở hướng nhìn rộng hơn khi tìm hiểu các kinh nghiệm ở các nước Đông Á. Các tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị: Cần chuyển mục đích sử dụng đất; giúp nông dân chuyển đổi nghề; phát triển công nghiệp xanh và cung cấp hàng công cộng.

Công trình khoa học cấp Nhà nước KX.01 – 2005 của trường Đại học Kinh tế Quốc dân về “Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình CNH, HĐH và ĐTH”. Theo số liệu điều tra của Đại học Kinh tế quốc dân tốc độ thu hồi đất để xây dựng KCN và đô thị tăng nhanh, ví dụ đến năm 2003 tổng diện tích đất thu hồi là 18,240 ha, riêng giai đoạn 2001 – 2003 là 6,500 ha, dự kiến sẽ tăng khi những năm tới các tỉnh thành trong cả nước vẫn tiếp tục kiến nghị đưa vào quy hoạch xây dựng KCN, khoảng 35,000 ha. Tác phẩm trên đã chỉ ra những bất cập khi nông dân không còn đất canh tác, do không được đào tạo nên phần lớn không có việc làm và thu nhập. Cần phải giải quyết vấn đề đó, bằng các chính sách như: chính sách đền bù, hỗ trợ, tái định cư và chính sách tạo việc làm cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong thu hồi đất.

Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010, của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, do Trần Thị Minh Ngọc làm chủ nhiệm, “Nghiên cứu về giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội”. Các tác giả đã chỉ rõ tác động của nó đến việc phát triển của thị trường lao động. Lao động làm công ăn lương có khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao động, thì 80% tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn và KCN). Tuy nhiên, thu hồi đất xây dựng KCN, KĐT đã làm cho 2,5 triệu nông dân không có việc


làm. Khu vực ngoại thành Hà Nội đến năm 2009 đã thu hồi 24,400 ha đất, số lao động mất việc từ đó khoảng 40,000 người; Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện để nông dân bị thu hồi đất có việc làm lâu dài, tạo việc làm tại chỗ cho lao động trên 35 tuổi.

Đề tài khoa học cấp cơ sở, của Viện nghiên cứu quyền con người, do Đặng Dũng Chí chủ trì, “Nghiên cứu về bảo đảm quyền lao động của các hộ nông dân bị thu hồi ở đồng bằng Sông Hồng”. Qua tìm hiểu thực trạng việc làm cho nông dân mất đất và những khó khăn trong mưu sinh của những người nông dân không còn đất canh tác, tại các vùng đồng bằng sông Hồng, đề tài đã đưa ra những luận cứ về bảo vệ quyền lao động của nông dân bị thu hồi đất. Lao động là quyền cơ bản nhất của con người, Nhà nước ta, trong quá trình thu hồi đất phải có những chính sách cụ thể đảm bảo quyền lao động của nông dân không còn đất.

Công trình của Chu Văn Cấp về “Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác động của chính sách thu hồi đất đối với nông dân trong quá trình CNH, HĐH”, đã đề cập vấn đề nông dân không có việc làm khi mất đất, sử dụng đất đai sai mục đích và ô nhiễm môi trường. Tác giả nêu lên thực trạng: có 37,7% số người bị mất đất có thu nhập thấp hơn khi còn đất, thất nghiệp tăng từ 5,22% lên 9,1%, được nhận vào làm ở KCN chỉ có 2,79%. Hơn nữa quản lí đất đai chưa chặt chẽ, đã có hàng trăm ha đất không sử dụng đúng mục đích, làm cho các khiếu kiện về đất đai chiếm 85% trong số đơn kiện trình Quốc hội, vi phạm về bảo vệ Môi trường lên tới 12,000 cơ sở trong cả nước… Qua đó cần có giải pháp như: tăng cường đầu tư nông nghiệp, dạy nghề cho nông dân và hoàn thiện chính sách thu hồi đất.

Nhóm tác giả Lê Viết Thuận, Phan Thị Ngọc đã nghiên cứu về: Tác động của chính sách thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai tới việc làm và quan hệ xã hội (qua trường hợp thôn Gia Trung, xã


Quang Minh, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Công trình đã phân tích những biến động trong đời sống xã hội của một địa phương nhỏ vào thời kì đầu thu hồi đất ở huyện Mê Linh 2001 – 2004, Năm 2001, tại thôn Gia Trung, đã thu hồi 90% diện tích đất nông nghiệp để xây dựng KCN và KĐT, làm 50% tổng số lao động không có việc làm, các quan hệ xã hội bị thay đổi không như mong muốn. Phương pháp phân tích tài liệu được các tác giả thu thập, phân tích, xử lý từ nhiều nguồn khác nhau: (i) Các quy định trong văn bản pháp luật của Nhà nước; (ii) Các Nghị quyết, văn kiện của Đảng; (iii) Từ kết quả khảo sát, điều tra xã hội học; (iv) Từ tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất; (v) Từ các công trình, bài viết của các tác giả trong nước; (vi) Từ các trang website; (vii) Từ các tài liệu nước ngoài,… cho thấy những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước cũng đã đề cập bức tranh khá toàn diện và "đa màu sắc" về bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi. Các phương pháp phỏng vấn, phương pháp thảo luận, phương pháp chuyên gia, khảo cứu điền dã được sử dụng để thu thập các thông tin thực tễ. Các tác giả đã sử dụng các phương pháp điều tra của xã hội học nhưng những cách tiếp cận thực chứng để mô tả đúng về cuộc sống, việc làm, thái độ, hành vi, sự biến đổi trong lòng xã hội trong quá trình người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.

Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống của nông dân, trên nhiều mặt như: việc làm, thu nhập, về định giá đền bù, hỗ trợ nông dân mất đất… Luận văn này kế thừa các kết quả nghiên cứu ấy nhưng nhấn mạnh sự tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực của quá trình thu hồi đất cho CNH, HĐH và ĐTH đối với đời sống nông dân, để tìm những giải pháp thích hợp cho việc phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của quá trình này tại huyện Mê Linh.

- Tác giả Phạm Thu Thủy (2011), (2012), (2013), (, (2014), với một loại


các bài viết và công trình nghiên cứu về bồi thường trong thu hồi đất nông nghiệp đối với người dân nông thôn. Trong đó tác giả đã phân tích Tác động tích cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân. Một mặt thu hồi đất nông nghiệp tạo cơ hội để tăng thêm việc làm cho người lao động. Việc thu hồi đất hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị sẽ tạo ra nhu cầu về việc làm tăng, nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết công ăn việc làm cho nông dân sau thu hồi đất nói riêng và cho lao động xã hội nói chung. Mặt khác, đô thị xuất hiện, các nhà máy phát triển cũng làm cho "cầu" về nguyên vật liệu, "cầu" về nông sản phẩm (lương thực thực phẩm) tăng, Sự phát triển của các khu công nghiệp và đô thị một mặt sẽ tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động tại đây, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động nông nhàn góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này Thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động Tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do đó tới cơ cấu lao động. Tuy nhiên Tác động tiêu cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân Đất đai canh tác nông nghiệp bị thu hẹp tạo ra sức ép việc làm đối với người lao động. Thu hồi đất nông nghiệp làm nguy cơ thất nghiệp của nhóm người lao động ở độ tuổi trên 35 là rất lớn. Ở hầu hết các địa phương, số lượng lao động trên 35 tuổi chiếm tỷ lệ lớn (35%). Trong sản xuất nông nghiệp, đây là lực lượng có kinh nghiệm, song khi bị thu hồi đất thì đây là bộ phận có nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn nhất vì tuổi cao nên khả năng được tuyển vào các doanh nghiệp rất ít và khó thích nghi với những công việc mới. Trong khi đó, ở độ tuổi này, số lao động chưa qua đào tạo rất nhiều và việc tham gia các khoá đào tạo chuyển nghề đối với họ cũng không dễ dàng như đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế rất khó để tìm được việc làm mới. Do không có việc làm ở nông thôn sau khi bị thu hồi đất, dòng người đi vào thành phố kiếm việc làm ngày một tăng gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, tiềm ẩn sự bất ổn trong xã hội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/02/2023