Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tổ Chức Thực Hiện Bảo Hiểm Y Tế Ở Khu Vực Phi Chính Thức


này, các nhu cầu cần thiết của cuộc sống không giảm đi mà còn tăng thêm thậm chí còn phát sinh nhu cầu mới như thuốc men, chữa trị,…

Với người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức ngoài nỗi lo về sự ổn định công việc luôn thường trực thì nỗi lo về thu nhập thấp và các nguy cơ bệnh tật rất lớn. Khi thu nhập chỉ đủ để đảm bảo cuộc sống bình thường thì khi có bệnh tật chi phí tăng lên gấp bội. Người lao động khu vực phi chính thức không những không đảm bảo sức khỏe để lao động mà còn không có thu nhập đủ để trang trải thuốc men, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, … Họ rất cần một nguồn hỗ trợ từ cơ quan nhà nước, tổ chức y tế để được chăm sóc sức khỏe đảm bảo. Có như vậy thì người lao động khu vực phi chính thức mới có sức khỏe để tiếp tục lao động sau quá trình điều trị.

Với mức thu nhập thấp, người lao động khu vực phi chính thức sẽ rất khó khăn khi phải khám chữa bệnh. Người lao động ở khu vực phi chính thức thường không ý thức được vai trò của bảo hiểm y tế. Nếu là cá thể lao động, bình thường họ cảm thấy với sức khỏe tốt nên họ không muốn mất một khoản chi phí “vô nghĩa”. Đối với lao động phi chính thức ở trong các tổ chức nhỏ khác, họ không ý thức để yêu cầu những người chủ sử dụng lao động phải có trách nhiệm với họ về yêu cầu đóng góp của xã hội. Các yêu cầu của luật pháp cũng như quy định trong luật bảo hiểm y tế thường chưa được áp dụng triệt để trong các nhóm làm việc nhỏ, trong các cụm làng nghề, … Nhưng khi những đau ốm bất ngờ giáng xuống, người lao động khu vực phi chính thức đối mặt với sức khỏe yếu đi, đồng nghĩa với áp lực khám chữa bệnh tăng cao. Khi không được hỗ trợ của nguồn kinh phí từ bảo hiểm y tế, người lao động mất khoản chi phí lớn đối với thu nhập hàng ngày của họ và chi phí đặc biệt lớn nếu gặp những bệnh lý hiểm nghèo, nguy hiểm, …

Do đặc điểm của BHYT không hoạt động kinh doanh, không vì mục đích lợi nhuận. Mức phí BHYT phụ thuộc vào khả năng đóng góp của người


dân trong khi mức hưởng căn cứ vào nhu cầu chi phí khám chữa bệnh thực tế mà không phụ thuộc mức đóng. Chi phí khám chữa bệnh ngày một tăng do áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật y tế, sử dụng các trang thiết bị hiện đại đắt tiền trong chẩn đoán, điều trị. Việc sử dụng nhiều loại biệt dược đắt tiền cũng là một trong các nhân tố làm tăng nhanh chi phí khám, chữa bệnh. Trước những nhu cầu của người lao động khu vực kinh tế phi chính thức về các khoản trợ cấp khi ốm đau, già yếu,… và sự thiệt thòi về lương, thưởng thì BHYT đối với người lao động ở khu vực này là hết sức cần thiết vì nhu cầu và quyền lợi của riêng bản thân và sự ổn định của đất nước nói chung.

1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế ở khu vực phi chính thức

* Nhận thức của người dân về vai trò của BHYT còn thấp nên mức độ tham gia BHYT chưa cao.

Nguyên tắc BHYT là có đóng có hưởng, cộng đồng cùng chia sẻ rủi ro, lấy số đông bù cho số ít không may mắc bệnh phải điều trị tốn kém. Thế nhưng không ít người nghĩ rằng đóng bảo hiểm chỉ để cho người khác được hưởng. Có những người lúc khoẻ mạnh không bao giờ nghĩ tới việc tham gia BHYT, nhưng khi bị bệnh tật đe doạ lại tìm mọi cách để có được thẻ bảo hiểm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Công tác tuyên truyền, phổ biến và vận động thực hiện chính sách BHYT chưa toàn diện, hiệu quả chưa cao, vẫn còn tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHYT. Một bộ phận người dân, nhất là những lao động khu vực phi chính thức còn thiếu thông tin về những quy định của Luật BHYT. Tình trạng các doanh nghiệp tư nhân trốn đóng BHYT cho người lao động vẫn còn ở mức cao. Người sử dụng lao động, người lao động ở khu vực kinh tế phi chính thức chưa thấy được quyền lợi thiết thực và ý nghĩa nhân văn của việc tham gia BHYT, chỉ khi phát hiện bệnh mới đi mua bảo hiểm.


Bảo hiểm y tế khu vực kinh tế phi chính thức ở Hà Nội - 4

* Việc làm và thu nhập của người lao động khu vực phi chính thức còn thấp và bấp bênh.

Việc làm không ổn định là nguyên nhân dẫn đến thu nhập và tích luỹ của người lao động khu vực phi chính thức thấp. Số tiền tiết kiệm thường được họ sử dụng vào việc mua sắm tài sản nhằm tái sản xuất mở rộng, hoặc dùng để xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng sinh hoạt và những nhu cầu chi tiêu khác như ma chay, cưới xin, thăm hỏi, giỗ tết... và các khoản đóng góp xã hội khác. Chính vì vậy, số tiền còn lại để có thể đóng góp, tham gia BHYT tự nguyện cũng như các loại hình bảo hiểm khác là không nhiều, khả năng tham gia BHYT tự nguyện của họ gặp nhiều khó khăn.

* Thể chế tài chính, tổ chức bộ máy BHYT

Những hạn chế của BHYT ở thời điểm hiện tại khiến người dân không muốn tham gia BHYT, với nhiều người BHYT chỉ thực sự có giá trị khi bị mắc bệnh nặng.

- Quỹ BHYT chưa được quản lý chặt chẽ, dẫn đến không ít trong đó bị thất thoát, sử dụng không hợp lý. Tình trạng lạm dụng các dịch vụ y tế, xét nghiệm, chiếu chụp… đối với bệnh nhân bảo hiểm y tế (BHYT) đang diễn ra ngày càng phổ biến và có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt, nhiều bệnh viện không ngại ngần sử dụng các hình thức tinh vi để bòn rút Quỹ BHYT.

- Thủ tục khám chữa bệnh BHYT quá phiền hà, quyền lợi của người tham gia BHYT vẫn bị hạn chế. Cơ chế quản lý giá thuốc chưa chặt chẽ nên giá thuốc ở Việt Nam luôn cao hơn các nước trong khu vực và giá thuốc ở các bệnh viện thì cao hơn thị trường. Tình trạng lạm dụng xét nghiệm trong chuẩn đoán, tiên lượng và điều trị cho những người có BHYT làm cho người bệnh phải cùng chi trả nhiều hơn. Đối tượng sử dụng thẻ BHYT đến khám chữa bệnh thường bị quá tải và chờ đợi. Bên cạnh đó việc thanh toán BHYT lại qua


1 cơ quan khác nên phải thông qua việc kiểm tra, giám sát dẫn đến thời gian bị kéo dài.

* Hệ thống pháp luật và chính sách BHYT

Chính sách BHYT thiếu ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thực tiễn. Chính sách BHYT tự nguyện chưa sát với thực tiễn, thiếu chặt chẽ, nên chỉ những người thường xuyên ốm, người mắc bệnh mãn tính hoặc người điều trị đặc biệt có chi phí lớn mới tham gia. Sự phối hợp liên ngành trong tổ chức thực hiện Luật BHYT ở một số tỉnh, thành phố chưa chặt chẽ.

Ở Việt Nam đã có chính sách hỗ trợ cho người nghèo được khám chữa bệnh qua BHYT, với mức hỗ trợ phí BHYT từ ngân sách nhà nước là 50% tổng phí tham gia. Mặc dù hỗ trợ lớn như vậy nhưng mức độ bao phủ cũng chỉ có 25% số người tham gia. Nhưng sự bao phủ của những lao động khu vực phi chính thức trong “lớp” người nghèo này không lớn.‌

Công tác thanh tra và kiểm tra chưa thường xuyên, chế tài sử phạt các hành vi chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp tuân thủ Luật BHYT. Chưa có chế tài xử lý đối tượng sử dụng lao động nhưng không tham gia BHYT…

1.3 Kinh nghiệm xây dựng chính sách bảo hiểm y tế một số nước trên thế giới

1.3.1 Một số mô hình bảo hiểm y tế trên thế giới

Mô hình Bismarck: Đức, Nhật, Pháp, Thụy sĩ, v.v..Mô hình này do cố thủ tướng Von Bismarck của Đức đưa ra vào năm 1883. Có một số đặc điểm:

+ Toàn bộ dịch vụ y tế và các hãng bảo hiểm y tế đều do tư nhân đảm nhiệm, với luật lệ và giá cả chặt chẽ trên cơ sở không vụ lợi(non-profit). Tuy gọi là bất vụ lợi nhưng các quỹ bảo hiểm tư nhân luôn cạnh tranh để thu hút khách hàng về mình để nuôi bộ máy điều hành.

+ Tiền trả cho bảo hiểm y tế là do công nhân và người chủ thuê lao động cùng lo.


+ Chính phủ chỉ lo cho chi phí y tế cho người nghèo.

+ Tất cả phải mua bảo hiểm y tế, ngoại trừ những người giàu có không cần mua, nhưng phải tự trả chi phí theo yêu cầu.

+ Người dân được quyền lựa chọn bất kỳ quỹ bảo hiểm tư nhân nào trong hơn 200 quỹ bệnh tật trong toàn nước Đức. Trung bình mỗi người dân Đức phải đóng 15% lương cho quỹ bảo hiểm y tế mà mình chọn mua.

+ Bảo hiểm về sai lầm nghề nghiệp(malpractice insurance) của bác sĩ Đức tốn khoảng 1% thu nhập.

Mô hình Beveridge: William Henry Beveridge một nhà kinh tế và xã hội học của Anh cho mô hình này ra đời từ năm 1942. Ý, Tây Ban Nha, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, Hong Kong theo mô hình này. Có đặc điểm:

+ Tất cả mọi dịch vụ y tế và bảo hiểm y tế cho dân là do nhà nước Anh lo thông qua cơ quan British National Health Service (NHS) nắm hơn 2.000 bệnh viện của nhà nước. Dĩ nhiên bệnh viện tư cũng có, nhưng hầu như là không hoặc tham gia rất ít trong bảo hiểm y tế.

+ Mọi công dân Anh đi khám và chữa bệnh không phải thanh toán tiền.

+ Chính phủ Anh quốc dùng mức đánh thuế cao thay cho lệ phí bảo hiểm y tế. Cho nên thuế ở Anh cao gần như nhất thế giới.

+ Tất cả công dân Anh phải đăng ký một bác sĩ tổng quát như bác sĩ gia đình (family doctor) ở Mỹ. Bác sĩ này có toàn quyền quyết định xét nghiệm chẩn đoán ban đầu và giới thiệu đến chuyên khoa. Bệnh nhân không được quyền gặp thẳng bác sĩ chuyên khoa mà không có sự đồng ý của bác sĩ tổng quát này. Đây là một nhược điểm làm người bệnh muốn có một điều trị chuyên sâu rất tốn thời gian.

+ Để kiểm soát trách nhiệm và quyền hạn của các bác sĩ gia đình NHS trao quyền cho NICE(National Institute for Health and Clinical Excellence)


kiểm tra dựa trên hiệu quả của các bác sĩ trên thực tế cho từng trường hợp bệnh cụ thể.

+ Bảo hiểm sai lầm nghề nghiệp của bác sĩ ở Anh khoảng 4% tổng thu

nhập.

Mô hình bảo hiểm y tế quốc gia: do Tommy Douglas, một nhà chính

trị theo trường phái Dân Chủ cấp tiến đề xuất vào năm 1944 cho Canada, sau đó được cải cách vào năm 1984. Canada, và ở mức độ nào đó, Đài Loan, Hàn Quốc là những nước theo mô hình này.

+ Dịch vụ y tế do tư nhân cung cấp.

+ Bảo hiểm y tế ở mỗi tiểu bang phải do chính quyền điều hành với mục đích phi lợi nhuận.

+ Mọi chương trình bảo hiểm phải chi trả cho mọi dịch vụ y tế cần thiết được chính quyền liên bang liệt kê trong một danh sách cụ thể.

+ Tất cả người dân phải được các bác sĩ và bệnh viện khám và chữa bệnh không phân biệt giai cấp với cùng một dịch vụ và giá thành như nhau.

+ Người bệnh được thăm khám và bảo hiểm phải chi trả 100% chi phí cho mọi công dân Canada ở mọi bệnh viện trên đất nước Canada. Ngoại trừ một số thăm khám ngoài bệnh viện của lĩnh vực Nha khoa.

+ Bác sĩ nhận lương thẳng từ cơ quan bảo hiểm y tế sau khi khấu trừ mọi chi phí thuế và bảo hiểm sai lầm nghề nghiệp.

Mô hình trả tiền túi: Đa số hơn 150 quốc gia trên thế giới không có hệ thống chi trả cho chi phí y tế. Bệnh nhân phải tự trang trải cho các chi phí y tế bằng tiền túi của mình; không có những chương trình bảo hiểm do tư nhân hay chính phủ điều hành. Chẳng hạn, ở Camphuchia, 91% chi phí y tế trong nước được trả bằng tiền túi; 85% ở Ấn Độ và 73% ở Ai Cập. Trong khi đó ở Anh, có chừng 3% và Mỹ có chừng 17% dịch vụ y tế được trả bằng tiền túi của bệnh nhân (hơn 45 triệu người không có bảo hiểm).


Dù bất cứ mô hình nào thì BHYT đều có những kẽ hở của luật pháp để tham nhũng chen chân vào.

1.3.2 Kinh nghiệm xây dựng chính sách bảo hiểm y tế ở một số nước

* Bảo hiểm y tế ở Đức

Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia có những thành công nhất định trong lĩnh vực BHYT. Có hai loại hình BHYT gồm công và tư nhân đang tồn tại và phát triển. BHYT công là hình thức bảo hiểm mang tính chất nghĩa vụ bắt buộc, họat động theo nguyên tắc tương trợ cộng đồng: người giàu hỗ trợ người nghèo, người không có con hoặc ít con hỗ trợ tài chính cho người có con, nhiều con. BHYT tư nhân là bảo hiểm thương mại, bảo hiểm căn cứ vào rủi ro cá nhân.

Tổ chức, cơ chế hoạt động: Các quỹ BHYT được tổ chức theo hình thức các cơ quan tự quản theo luật công. Luật BHYT Đức quy định, nếu quỹ BHYT có kết dư, năm sau quỹ đó phải giảm mức đóng, ngược lại nếu trong năm bội chi, các quỹ đó có quyền tăng mức phí cho phù hợp cân đối thu chi. Ngoài ra, Luật BHYT cho phép các quỹ BHYT được lập quỹ dự phòng. Tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHYT chỉ được gửi Ngân hàng, mua công trái, không được đầu tư vào lĩnh vực khác.

Đối tượng và mức đóng: Chủ yếu là những người làm công ăn lương và thân nhân của họ. Người về hưu là đối tượng thực hiện BHYT công theo luật định. Những đối tượng khác tham gia BHYT tự nguyện. Về mức đóng: Luật BHYT quy định tỷ lệ đóng góp giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, không quy định cụ thể mức đóng BHYT.

Quyền lợi và phương thức thanh toán: Người tham gia BHYT công được hưởng các chế độ dưỡng sức, phòng bệnh và chẩn đóan bệnh sớm. Được sự chăm sóc của bác sĩ trong trường hợp thai sản, sinh con,….Người có thẻ BHYT đi khám chữa bệnh phải tuân thủ quy định về phân tuyến chuyên môn


kỹ thuật của ngành y tế mới được hưởng quyền lợi BHYT. Luật cung ứng dịch vụ y tế của Đức quy định các nguyên tắc hoạt động chuyên môn của bác sĩ phải đảm bảo chất lượng, đồng thời có hiệu quả kinh tế.

Người Đức xử dụng thẻ y tế điện tử tương tự như Carte Vitale của Pháp, giúp giảm chi phí về quản lý hồ sơ và thanh toán y phí. Bác sĩ ở Đức chỉ phải trả một số tiền nhỏ hàng năm cho bảo hiểm sai lầm nghề nghiệp, khoảng 1.400$/năm; tương đương với lệ phí một tuần của bác sĩ ở Mỹ. Nhưng đồng thời, thu nhập của bác sĩ ở Đức cũng thấp hơn nhiều, trung bình từ

100.000 $ đến 150.000 $/ năm.

* Bảo hiểm y tế ở Anh

Hệ thống y tế tại nước Anh là hệ thống y tế toàn diện dựa trên thuế thu nhập, còn gọi là hệ thống y tế kiểu Beveridge. Hệ thống này dựa trên nguyên tắc người dân phải đóng thuế thu nhập và nhà nước sử dụng thuế thu nhập này cho các mục đích y tế, giáo dục.

Năm 1981, hệ thống y tế Anh phải đương đầu với giá dịch vụ y tế leo thang vì sự trì trệ của hệ thống y tế anh. Thủ tướng Margaret Thatcher đưa ra giải pháp khuyến khích y tế tư nhân và BHYT tư nhân. Song người dân Anh đã quen với hệ thống y tế cũ nên không chấp nhận tư nhân hóa. Cuối cùng, một hệ thống y tế kết hợp giữa một bên là y tế công và một bên là cung ứng dịch vụ y tế tư trong cùng một tổ chức hệ thống y tế quốc gia Anh đã được áp dụng.

Cơ quan British National Health Service, do vương công William Beverdige khởi xướng trước đây hơn 60 năm, đảm trách việc bảo hiểm y tế cho mọi người ở Anh. Công dân Anh không phải trả lệ phí bảo hiểm. Trẻ em, người già trên 60, người có bệnh kinh niên và thai phụ chỉ phải trả 10$ tiền thuốc cùng với bảo hiểm (gọi là đồng chi trả); khoảng 85% thuốc cho bệnh nhân là miễn phí. Tuy cũng có bảo hiểm y tế tư nhân, nhưng tuyệt đại đa số,

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 27/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí