Các Chế Độ Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc

Như vậy, có thể thấy, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội đặc thù của mỗi quốc gia, việc lựa chọn cơ chế đóng góp quỹ bảo hiểm cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử của từng nước.

Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH là các khoản trợ cấp và các chế độ luật định khác cho người được BHXH. Khoản chi này chỉ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH do pháp luật quy định, không phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH. Ngoài ra, còn có các chi phí quản lý hệ thống và chi đầu tư tăng trưởng. Thông thường, chi phí quản lý hệ thống sẽ tỷ lệ nghịch với trình độ quản lý ở mỗi nước và ngày càng giảm do trình độ quản lý đạt được ngày càng cao. Tuy nhiên, để tránh lạm dụng, trong từng thời kỳ, Nhà nước có thể quy định một mức trần chi quản lý, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy mô hệ thống và thời gian hoạt động.

Đối với BHXH, quản lý quỹ có vai trò đặc biệt quan trọng. Về nguyên tắc chung, quỹ BHXH là quỹ cộng đồng, độc lập với ngân sách, thường do tổ chức BHXH quản lý công khai, minh bạch, có giám sát của cơ chế ba bên (đại diện NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước), để đảm bảo an toàn tài chính và được Nhà nước tuyên bố bảo trợ hoặc bù thiếu để không bị phá sản. Thực tế, có rất nhiều cách thức quản lý tài chính khác nhau được sử dụng trong BHXH, tùy theo điều kiên của từng quốc gia. Về cơ bản, hai cách quản lý hệ thống tài chính tiêu biểu là “thu đến đâu, chi đến đấy” (PAYG: Pay-as-you-go) và kiểu “lập quỹ tồn tích dài hạn”[22, tr52]. Quản lý tài chính theo kiểu “ thu đến đâu, chi đến đấy” đơn giản hơn vì quỹ được hạch toán trong thời hạn ngắn, thường trong khoảng một năm và về nguyên tắc là có thể điều chỉnh. Như vậy quỹ ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố giá cả, lạm phát, ít phải chú trọng hoạt động đầu tư tăng trưởng để bảo tồn quỹ. Tuy nhiên, mô hình “thu đến đâu, chi đến đấy” chỉ thành công trong điều kiện hệ thống đã tương đối ổn định, nghĩa là tính toán được đối tượng đóng và mức thu, xác suất rủi ro và mức chi…ở

mức độ cần thiết, từ đó tính được mức thu tương đối sát thực và một khoản dự phòng nhỏ để đảm bảo an toàn. Vì vậy, kiểu quản lý tài chính này thường được áp dụng cho các chế độ ngắn hạn, tính được xác suất rủi ro và chủ yếu để thực hiện nguyên tắc tương trợ cộng đồng.

Quản lý tài chính BHXH theo mô hình “lập quỹ tồn tích dài hạn” thường được áp dụng cho các chế độ BHXH dài hạn. Về nguyên tắc, quỹ được tích lũy trong suốt cuộc đời NLĐ, có thể qua nhiều thế hệ, để chi trả khi người tham gia đủ điều kiện hưởng sau một thời gian dài đóng góp. Vì vậy, hệ thống tài chính “lập quỹ tồn tích dài hạn” thường bị ảnh hưởng bởi các khó khăn do lạm phát, cơ cấu tuổi dân số, mức sống và số người hưởng ngày càng tăng…Kết quả đầu tư, tăng trưởng quỹ là vấn đề quan trọng nhưng không phải bao giờ cũng đem lại hiệu quả tốt, bởi quỹ duy trì trong một thời gian dài, khó tránh khỏi khó khăn do những chu kỳ suy thoái kinh tế gây ra. Để đối phó với các khó khăn trên, quỹ thường được hoạch định, cân bằng trong từng giai đoạn.

Kinh nghiệm ở Trung Quốc cho thấy, nhờ vào việc đổi mớí mô hình quản lý quỹ và phương thức đầu tư đã mang lại cho quốc gia này những thành công lớn trong việc duy trì và phát triển hệ thống BHXH nói chung và hiệu quả của hoạt động đầu tư quỹ nói riêng. Trước năm 1993, mô hình BHXH của Trung Quốc hoạt động theo nguyên tắc PAYG DB. Từ 1993, Trung Quốc xây dựng mô hình BHXH kết hợp, dựa trên hai trụ cột là mô hình PAYG (với mức chi trả thấp) và mô hình BHXH bổ sung (gắn với mức thu nhập và thoả thuận giữa chủ sử dụng lao động và người lao động). Hiện nay, hệ thống BHXH ở Trung Quốc được xây dựng với nhiều tầng nấc như sau:

Trụ cột thứ nhất là BHXH bắt buộc nhưng với hai chế độ theo hai mô hình hoạt động: (1) BHXH cơ bản tối thiểu bù đắp (tầng 1) theo cơ chế PAYG; và (2) BHXH theo mô hình BHXH tài khoản cá nhân bắt buộc (tầng

2); Trụ cột thứ hai là BHXH bổ sung (tầng 2); Trụ cột thứ ba là BHXH tự nguyện theo mô hình tiết kiệm cá nhân (tầng 3) [14,tr23-25].

Phần lớn nguồn thu được từ trụ cột BHXH theo mô hình PAYG dùng để chi trả cho người đang hưởng chế độ, còn quỹ BHXH được tích luỹ từ trụ cột tài khoản cá nhân thì được đầu tư sinh lời. Để đảm bảo cho quỹ được sinh lời, Chính phủ đã đặt ra một loạt các nguyên tắc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát đầu tư. Hội đồng quản trị BHXH quyết định đầu tư vào từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể dựa trên các tiêu chí đầu tư theo quy định .

Từ kinh nghiệm quản lý quỹ của Trung Quốc như đã đề cập ở trên, chúng tôi nhận định Việt Nam cần nhanh chóng nghiên cứu chuyển đổi mô hình cân đối quỹ. Việc chuyển đổi sang một cơ chế tài chính mới có tích luỹ thay vì chỉ là việc sử dụng số dư tạm thời nhàn rỗi như hiện nay khi mà tỷ lệ phụ thuộc còn thấp. Nếu chuyển đổi cơ chế tài chính sang dạng tài khoản cá nhân thì sẽ giải quyết được vấn đề già hoá dân số, các tác động lên thị trường lao động, thị trường vốn…đến vấn đề cân đối quỹ và tạo ra số dư cho đầu tư hiệu quả. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, cần có lộ trình cụ thể và kinh phí lớn. Hiện nay, một cơ chế trung gian là tài khoản cá nhân tượng trưng (NDC) là sự kết hợp của hai cơ chế nói trên đã được nhiều nước áp dụng như là một hình thức cứu cánh cho việc cân đối quỹ và cũng đang thực hiện rất hiệu quả như ở Thụy Điển, Chilê… Việt Nam có thể học tập mô hình này trong tương lai để giúp cân đối quỹ trong dài hạn và có nguồn lực tài chính đa dạng hơn phục vụ cho việc đầu tư sinh lời.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

1.3.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc

Khi nói về các chế độ BHXH bắt buộc, giáo trình Bảo hiểm xã hội của Trường Đại học Lao động – Xã hội cho rằng: “Chế độ bảo hiểm xã hội là các trường hợp được bảo hiểm do Nhà nước quy định cho người hưởng bảo hiểm, theo các mức hưởng và thời gian hưởng khác nhau, khi có đủ điều kiện bảo

Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội - 4

hiểm phát sinh”[23, tr49]. Thực tế khi nghiên cứu về các chế độ BHXH bắt buộc, có tác giả lại cho rằng: “Chế độ bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hoá chính sách bảo hiểm xã hội, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết nhằm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng, điều kiện để được hưởng, mức hưởng, thời hạn hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng chế độ bảo hiểm xã hội cụ thể” [33, tr13].

Theo tác giả, quan điểm sau về cơ bản đã bao trùm đầy đủ các nội dung của chế độ BHXH bắt buộc và có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn và thực hiện các chế độ BHXH. Chế độ BHXH bắt buộc được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ…Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lòi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng đắn và tính nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc.

Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ sau:

1. Chăm sóc y tế

2. Trợ cấp ốm đau

3. Trợ cấp thất nghiệp

4. Trợ cấp tuổi già

5. Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

6. Trợ cấp gia đình

7. Trợ cấp sinh đẻ

8. Trợ cấp khi tàn phế

9. Trợ cấp tiền tuất (trợ cấp mất người nuôi dưỡng).

Chín chế độ trên hình thành một hệ thống chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế, xã hội mà mỗi nước tham gia Công ước thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong

đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp khi tàn phế và trợ cấp tiền tuất. Khi đã được pháp luật quy định, nội dung của các chế độ BHXH thường bao gồm việc xác định mục đích thực hiện chế độ, xác định đối tượng bảo hiểm, điều kiện được trợ cấp, xác định mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH. Cho tới nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đã ban hành hệ thống pháp luật về ASXH, trong đó có BHXH bắt buộc và không ngừng hoàn thiện hệ thống các chế độ trợ cấp.

Hiện nay, việc thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc trên thế giới có thể chia thành hai mô hình chính nằm trong hệ thống ASXH: mô hình Bismarck (Đức, Pháp) và mô hình Mỹ, Anh. Mô hình Bismarck được áp dụng khá phổ biến ở các nước Tây Âu (Đức, Pháp) hay Bắc Âu (Thụy Điển, Phần Lan) do Tể tướng Đức Bismarck là người sáng lập. Trong mô hình này BHXH được coi là trụ cột trong hệ thống ASXH. Mục tiêu là hầu hết các thành viên trong xã hội đều được “bao bọc”, nên diện bao phủ rất rộng. Bao gồm chăm sóc y tế (BHYT), trợ cấp ốm đau, thất nghiệp, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuổi già (hưu trí), trợ cấp gia đình, trợ cấp tàn phế và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Trong đó, Thụy Điển là một trong những quốc gia có các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc đầy đủ theo khuyến nghị của ILO tại Công ước 102. Chế độ BHXH Thụy Điển bao gồm chế độ chung dựa vào nơi cư trú và trợ cấp gắn với công việc [31,tr432-439]. Cụ thể:

Bảo hiểm ốm đau, là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc do bị ốm đau, tai nạn. Tất cả những người cư trú ở Thụy Điển đều được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Các hội đồng cấp quận chịu trách nhiệm về các dịch vụ y tế - vệ sinh trong địa hạt của mình và vì vậy họ có quyền đánh thuế riêng. Hội đồng sở hữu và quản lý các trung tâm y tế. Ngoài ra, còn có các tổ chức tư nhân mà phần lớn là đã ký các thỏa ước với các hội đồng cấp quận. Quỹ BHXH đền bù một phần những chi phí y tế, kiểm tra và điều trị do các bác sỹ đã ký kết thỏa thuận thực hiện trong lĩnh vực tư.

Những người bệnh có thể lựa chọn trung tâm y tế hay bác sỹ gia đình hoặc thậm chí là bệnh viện nơi người đó muốn được chăm sóc. Khi một người đến một bác sĩ thuộc về dịch vụ công, họ chỉ phải trả một phần chi phí nhất định. Nếu một người đến khám ở một bác sỹ tư nhân đã ký kết thỏa thuận, một phần chi phí do bảo hiểm ốm đau chi trả, nhưng phần chi phí do chính người đó chi trả cao hơn khi người đó đến với một bác sĩ thuộc về dịch vụ công. Nếu bác sỹ không ký kết thỏa thuận, thì người đó chịu toàn bộ chi phí. Trong trường hợp nằm viện, người bệnh phải trả một phần chi phí theo ngày nằm viện trong một cơ sở công. Những chăm sóc trong những cơ sở tư nhân không ký thỏa thuận với cơ quan bảo hiểm không được đền bù. Chi phí mà người bệnh phải trả trong các dịch vụ công về chăm sóc không thể cao hơn mức tối đa trong thời gian 12 tháng. Những người thực hiện một hoạt động được trả thù lao hay độc lập trong trường hợp ngừng làm việc vì lý do ốm đau có quyền được nhận các trợ cấp theo ngày với mức trợ cấp bằng 80% thu nhập trước đó trong phạm vi mức cao nhất.

Trợ cấp thai sản và chăm sóc con, là một trong các chế độ BHXH, bao gồm các quy định của Nhà nước nhằm đảm bảo thu nhập và bảo đảm sức khỏe cho lao động nữ nói riêng khi mang thai, sinh con và cho người lao động nói chung khi nuôi con sơ sinh. Tất cả những chăm sóc gắn với việc sinh đẻ đều không mất tiền. Trong trường hợp phải nằm viện, các nguyên tắc được áp dụng giống với các nguyên tắc trong trường hợp ốm đau. Mức trợ cấp theo ngày bằng mức trợ cấp trong trường hợp ốm đau được chi trả trong trường hợp dành cho người mẹ, người cha hoặc nghỉ phép dành cho cha mẹ:

- Trợ cấp trước khi sinh đẻ được chi trả trong thời gian nghỉ tối đa là 50 ngày cho tất cả những người phụ nữ làm công ăn lương hay độc lập trong những tuần cuối mang thai không thể thực hiện một công việc nào đó;

- Trợ cấp cho cha mẹ dành cho người cha hoặc người mẹ làm công ăn lương hay độc lập trong thời gian nghỉ là 450 ngày. Khi cả người cha và người mẹ cùng chịu trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ, số ngày được trả trợ cấp

được chia sẻ giữa hai người. Cha mẹ có thể không làm việc và hưởng toàn bộ trợ cấp, hoặc làm việc một nửa thời gian và nhận một phần trợ cấp;

- Trợ cấp dành cho người cha được trả cho người cha trong mười ngày sau khi đứa trẻ ra đời. Trợ cấp này kết hợp với trợ cấp dành cho người mẹ được chi trả cho người mẹ;

- Trợ cấp cho cha mẹ tạm thời được dành cho người cha hoặc người mẹ đang thực hiện một công việc được trả công hay không được trả công, khi đứa trẻ bị ốm và người mẹ/ người cha hay người thường xuyên chăm sóc đứa trẻ phải nghỉ phép để chăm sóc đứa trẻ đó.

Các trợ cấp hưu trí. Bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm dành cho những người không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Còn trợ cấp tử tuất là chế độ đối với thân nhân của NLĐ. Trong các chế độ, các trợ cấp hưu trí và tử tuất chiếm 39,1% tổng số trợ cấp của Thụy Điển. Bảo hiểm trợ cấp liên quan đến trợ cấp hưu trí, thương tật và tử tuất. Một cuộc cải cách lớn đã diễn ra vào năm 1999. Trước tiên, cuộc cải cách được áp dụng cho trợ cấp hưu trí, sau đó cho trợ cấp thương tật và dành cho người còn sống từ ngày 01 tháng 01 năm 2003.

Chế độ cũ bao gồm trợ cấp cơ bản quốc gia có được do cư trú ở Thụy Điển trong một khoảng thời gian nhất định và trợ cấp bổ sung có được do hoạt động nghề nghiệp. Tuổi để được trợ cấp là 65 với khả năng trả trước từ tuổi 61 và khả năng hoãn lại đến năm 70 tuổi.

Các chế độ mới được thiết kế nhằm đảm bảo sự cân đối tài chính. Cơ cấu của chế độ mới như sau: trợ cấp tỷ lệ theo hình thức tọa thu tọa chi gắn với thu nhập từ việc làm trong suốt thời gian làm việc, chế độ bổ sung được chi trả theo hình thức tọa thu tọa chi và dựa trên những nguyên tắc bảo hiểm truyền thống (người được bảo hiểm lựa chọn nhà quản lý quỹ để quản lý phần trợ cấp này) và cuối cùng, trợ cấp có đảm bảo (tuổi già) do ngân sách nhà nước chi trả dựa trên số năm cư trú, tạo thành “tấm lưới an toàn” cho tất cả

mọi người dân không được nhận trợ cấp tuổi già do hoạt động nghề nghiệp hoặc hưởng một trợ cấp rất thấp.

Tuổi được trợ cấp rất linh hoạt, có thể đưa ra yêu cầu trợ cấp từ năm 61 tuổi, luật không xác định giới hạn tuổi nào cao hơn. Trợ cấp có thể được chi trả dưới hình thức trợ cấp đầy đủ hoặc theo phần. Vào thời điểm chi trả, phải tính đến tuổi thọ trung bình dựa trên các thống kê mới nhất về vấn đề này. Tất cả các thu nhập từ công việc đều mang lại quyền được trợ cấp, kể cả những thu nhập có được sau khi chi trả lương hưu.

Cải cách đối với chế độ tử tuất có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2003, nhằm làm cho bảo hiểm này thích ứng với chế độ hưu trí mới. Các trợ cấp tử tuất bao gồm trợ cấp cho người vợ góa hay người chồng góa và trợ cấp cho trẻ mồ côi. Theo chế độ mới, trợ cấp dành cho người vợ hay người chồng góa là tạm thời và có thể được gia hạn trong trường hợp phải nuôi con, theo tuổi của đứa trẻ nhưng các điều kiện để được kéo dài chặt chẽ hơn so với trước đây. Trong trường hợp người cha hoặc người mẹ chết, đứa trẻ mồ côi dưới 18 tuổi được nhận trợ cấp trong đó mức trợ cấp được xác định theo những quyền lợi mà người cha hoặc người mẹ đã qua đời có được.

Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bao gồm các quy định pháp luật nhằm bảo đảm thu nhập và bảo đảm sức khỏe cho người lao động trong các trường hợp bị TNLĐ hoặc bị BNN. Tất cả những người thực hiện một hoạt động làm công ăn lương hay độc lập cũng như học viên của một số trường nghiệp vụ được bảo hiểm cho những rủi ro về TNLĐ. Đó là tất cả các tai nạn và tất cả những bệnh có mối liên hệ với hoạt động nghề nghiệp. Không có danh sách các bệnh nghề nghiệp. Để được trợ cấp, cần phải chứng minh thiệt hại là do một hay nhiều ảnh hưởng độc hại ở nơi làm việc gây ra. Tai nạn trên quãng đường giữa nơi làm việc và nơi ở cũng được bảo hiểm.

Những chăm sóc y tế cần thiết khi có TNLĐ hay BNN cũng được tính giống như trong trường hợp ốm đau. Mặc dù vậy, bảo hiểm TNLĐ có thể đền

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ
Ngày đăng: 16/06/2022