Về điều kiện NLĐ được hưởng chế độ BNN. Theo quy định, NLĐ muốn hưởng chế độ BNN thì cần phải có hai điều kiện là: Bị bệnh nằm trong các bệnh đã được quy định; Phải làm việc trong môi trường hoặc ngành nghề có yếu tố độc hại, tuy nhiên trong thực tiễn “có trường hợp NLĐ đã làm việc ở môi trường, nghề độc hại nhưng sau đó chuyển sang nơi làm việc có yếu tố bình thường thì mới phát sinh BNN thì có được hưởng chế độ BNN không? Có tính đến vấn đề bảo lưu điều kiện lao động có hại cũng như nguyên tắc bảo lưu như thế nào? Trong trường hợp NLĐ bị mắc BNN sau khi đã rời khỏi nơi làm việc độc hại.”[17, tr14]. Quan điểm này đã phần nào cho thấy những bất cập trong quy định về điều kiện hưởng chế độ BNN mà Luật BHXH năm 2006 chưa dự liệu tới. Bên cạnh đó, quy định về hồ sơ hưởng BNN phải có “biên bản đo đạc môi trường có yếu tố độc hại” ( theo Điều 115, Luật BHXH) chúng tôi cho rằng Luật cũng cần phải xem xét lại. Tại Thông tư số 12/2006/TT-BYT ngày 10/11/2006 của Bộ Y tế quy định rò thêm là kết quả xác định môi trường lao động có giá trị trong 24 tháng kể từ ngày biên bản được ký. Tuy nhiên, BNN chỉ phát sinh khi NLĐ làm việc trong môi trường độc hại trong thời gian dài, tiếp xúc nhiều và thường xuyên với các chất độc hại như khí, độ ồn, nồng độ bụi, các hơi…Nếu lấy kết quả đo đạc môi trường trong 24 tháng cuối cùng đủ tiêu chuẩn cho phép để không giải quyết BNN cho NLĐ là không hợp lý. Do vậy, đã có ý kiến cho rằng: “Đề nghị cho phép lấy kết quả đo đạc môi trường trong khoảng thời gian người lao động bắt đầu làm việc cho đến khi mắc bệnh nghề nghiệp, nếu có biên bản đo đạc môi trường từ 02 năm liên tiếp không đạt được thì giải quyết bệnh nghề nghiệp” [15, tr22]. Theo chúng tôi, phương án này cần được sửa đổi để phù hợp hơn với thực tế, góp phần bảo đảm quyền lợi chính đáng của NLĐ trong việc thụ hưởng chế độ BNN.
Một bất cập khác mà tác giả muốn đề cập đến trong thực tiễn thực hiện trong thời gian qua cho thấy, đó là trợ cấp TNLĐ, BNN hàng tháng của NLĐ được điều chỉnh tương ứng khi Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH. Tuy nhiên, Luật BHXH chưa có quy định về việc điều chỉnh trợ cấp TNLĐ, BNN hàng tháng.
Theo quy định Luật BHXH hiện hành thì NLĐ bị TNLĐ, BNN mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, cơ quan BHXH đã gặp rất nhiều lúng túng, vướng mắc trong việc thực hiện quy định này khiến NLĐ phải chờ đợi lâu.
Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe áp dụng cho NLĐ sau khi ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN mà sức khỏe còn yếu thì được nghỉ từ năm ngày đến mười ngày trong một năm với mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức tại gia đình, bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại cơ sở tập trung tại Điều 26, Điều 27 và Điều 48 Luật BHXH. Theo quy định của Luật BHXH thì thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe là thời gian NLĐ nghỉ việc không đi làm và không hưởng lương. Song, chế độ này trong thời gian qua cho thấy, do đơn vị sử dụng lao động có quyền quyết định trên cơ sở hạch toán tài chính theo quy định nên nhiều khi kinh phí của chế độ này được chia đều có tính chất “cào bằng” cho cả những người không đủ điều kiện hưởng chế độ này [18, tr13]. Đồng tình với quan điểm trên, tác giả Luận văn cho rằng, bản chất của chế độ nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe là nhằm tạo điều kiện cho NLĐ sau thời gian nghỉ việc do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN mà sức khỏe còn yếu thì có thêm thời gian nghỉ để tái tạo sức lao động. Do vậy, Luật cần có những quy định cụ thể, chi tiết thì mục đích
của chế độ này mới đạt được và không ảnh hưởng đến hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội.
*Chế độ hưu trí
Nhìn chung, các quy định về chế độ hưu trí trong Luật BHXH hiện hành đã tương đối hợp lý về điều kiện nghỉ hưu, điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH, điều chỉnh lương hưu...đã tạo được sự đồng tình của đa số NLĐ và từng bước cải thiện cuộc sống của người về hưu. Tuy nhiên, trước sự tăng trưởng của nền kinh tế và nhu cầu sử dụng nguồn lao động có chất lượng cao, và xu hướng già hóa dân số, chế độ hưu trí tại Luật BHXH đã bộc lộ một số bất cập sau:
Còn có sự lồng ghép giữa chế độ hưu trí với các chính sách khác như chính sách lao động, chính sách việc làm (như chính sách đối với lao động dôi dư, tinh giảm biên chế, đối với người không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm,...) dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp giải quyết chế độ hưu trí trước tuổi quy định khiến cho quỹ BHXH ngày càng có nguy cơ mất cân đối; đồng thời cũng tạo nên sự không công bằng giữa các đối tượng tham gia BHXH nói chung.
Việc quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ thấp hơn tuổi nghỉ hưu của lao động nam chỉ hợp lý đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Việc quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ nói chung sớm hơn nam 5 tuổi vừa tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, hạn chế sự thăng tiến, đồng thời vừa gây lãng phí nguồn lao động (đặc biệt là những lao động có sự tích luỹ nhiều kinh nghiệm cần thiết trong công tác nghiên cứu), vừa dẫn đến quỹ BHXH phải chi trả cho những người có khả năng và nhu cầu làm việc, có thể sau khi nghỉ hưu vẫn làm việc có thu nhập.
Về tuổi nghỉ hưu nói chung quy định như hiện nay cơ bản là hợp lý trong thời điểm hiện tại, song với thực trạng tuổi thọ dân số đang tăng lên sẽ là một trong những nguyên nhân làm cho quỹ không có khả năng chi trả. Mặc dù
Có thể bạn quan tâm!
- Các Chế Độ Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc
- Xử Lý Vi Phạm Và Giải Quyết Tranh Chấp Về Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc.
- Thực Trạng Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc 2.1.1.về Đối Tượng Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc
- Vi Phạm Và Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Về Bảo Hiểm Xã Hội .
- Những Hạn Chế Trong Thực Hiện Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc.
- Những Yêu Cầu Đặt Ra Cho Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Hiểm Xã Hội Bắt Buộc.
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
theo quy định của pháp luật hiện hành tuổi nghỉ hưu nói chung là 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ, tuy nhiên với việc quy định giảm tuổi nghỉ hưu trong các trường hợp như tinh giảm biên chế, lao động dôi dư, lao động làm việc trong các điều kiện nặng nhọc, độc hại, lực lượng vũ trang và đặc biệt là giảm tuổi nghỉ hưu trong trường hợp suy giảm khả năng lao động đã làm cho tuổi nghỉ hưu bình quân giảm đáng kể (theo số liệu báo cáo không chính thức của BHXH Việt Nam tuổi nghỉ hưu bình quân hiện nay là 53 tuổi, trong đó nam là 55 tuổi và nữ là 51 tuổi), tuổi nghỉ hưu thấp cùng với tuổi thọ bình quân tăng đây cũng là một thách thức lớn trong việc cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn.
Việc quy định NLĐ chưa hết tuổi lao động và còn khả năng lao động có dưới 20 năm đóng BHXH được nhận trợ cấp BHXH một lần là chưa đảm bảo khuyến khích NLĐ tham gia BHXH tự nguyện và chưa phù hợp với mục tiêu của BHXH là nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi hết tuổi lao động, đảm bảo an sinh xã hội. Mức hưởng bảo hiểm một lần còn thấp so với mức đóng. Theo lộ trình tăng tỷ lệ đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất theo quy định của Luật BHXH thì từ năm 2014 trở đi, mức đóng BHXH của NLĐ và NSDLĐ là 22% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Trong khi đó, mức hưởng BHXH một lần vẫn quy định mỗi năm đóng BHXH hưởng 1,5 mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH. Quy định này là thiệt thòi cho NLĐ và chưa đảm bảo được nguyên tắc đóng – hưởng.
Luật BHXH hiện hành chưa quy định về việc tiếp tục hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc người xuất cảnh trở về định cư hợp pháp, mất tích trở về, nên gây khó khăn trong thực hiện và thiệt hại quyền lợi của người lao động [9, tr13].
Cách tính mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để làm cơ sở tính lương hưu, trợ cấp BHXH một lần theo pháp luật hiện hành còn có sự phân biệt giữa NLĐ hưởng tiền lương và đóng BHXH theo chế độ
tiền lương do Nhà nước quy định và người đóng BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định. Điều đó không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, thang bảng lương của Nhà nước khi thay đổi, chênh lệch rất nhiều nên không bảo đảm công bằng giữa những người nghỉ hưu trong các thời kỳ khác nhau. Cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu có sự khác biệt giữa nam và nữ, trong khi đó tỷ lệ đóng BHXH là như nhau. Điều này cũng tạo nên sự không công bằng trong quyền thụ hưởng giữa các đối tượng tham gia.
Mức lương hưu hiện nay còn thấp so với nhu cầu cuộc sống của người về hưu, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH hiện nay thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế của người lao động. Điều đó dẫn đến tình trạng mặc dù tỷ lệ
% hưởng lương hưu khá cao (tối đa 75%) nhưng mức lương hưu của người nghỉ hưu còn thấp so với nhu cầu của cuộc sống, điều này cũng gây một áp lực lớn đối với quỹ BHXH trong việc điều chỉnh lương hưu. Điều này thể hiện khá rò đối với lao động hưởng lương và đóng BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định, do quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là mức tiền lương ghi trên hợp đồng lao động nên các doanh nghiệp khi ký HĐLĐ với NLĐ thỏa thuận tiền lương ghi trên HĐLĐ là phần cơ bản, đảm bảo cao hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy định, còn lại là các khoản phụ cấp, trợ cấp để trốn đóng BHXH.
Xu hướng giải quyết BHXH một lần (đối với người chưa hết tuổi lao động) ngày càng tăng, số NLĐ nghỉ việc giải quyết BHXHmột lần hàng năm có chiều hướng gia tăng và chiếm khoảng từ 5-6% tổng số đối tượng tham gia BHXH, điều này đặt ra câu hỏi cho các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan BHXH khi nghiên cứu, xây dựng chính sách với mục tiêu từng bước mở rộng đối tượng tham gia đảm bảo cuộc sống người lao động khi hết tuổi lao động, đảm bảo an sinh xã hội.
Hệ thống hưu trí hiện hành của Việt Nam còn thiếu đa dạng, chính vì vậy áp lực về vấn đề cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn và vấn đề mức lương hưu đảm bảo cuộc sống của người nghỉ hưu đang là vấn đề đáng quan tâm. Qua tham khảo kinh nghiệm của các nước có hệ thống BHXH phát triển trên thế giới, chúng tôi thấy việc thực hiện hệ thống hưu trí đa tầng, đa lớp và đa dạng hình thức thực hiện chế độ hưu trí sẽ giảm sức ép trong việc cân đối quỹ BHXH hưu trí trong dài hạn và đảm bảo tốt hơn cuộc sống của người nghỉ hưu.
*Chế độ tử tuất
Theo quy định của Luật BHXH hiện hành, chế độ tử tuất có nhiều quy định theo hướng có lợi hơn cho thân nhân của NLĐ như: nâng mức trợ cấp mai táng từ 8 tháng lên 10 tháng lương tối thiều chung; nâng mức trợ cấp tuất hàng tháng từ 40% lên 50% mức lương tối thiểu chung; nâng mức trợ cấp tuất một lần cho thân nhân người đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH chết lên mỗi năm đóng bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH, không khống chế mức tối đa. Trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết, cao nhất là 48 tháng lương hưu đang hưởng, Với quy định của Luật BHXH hiện hành đã đảm bảo tốt hơn quyền lợi của thân nhân NLĐ, đảm bảo tốt hơn nguyên tắc đóng – hưởng trong việc thực hiện chế độ tử tuất.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện chế độ tử tuất theo quy định của Luật BHXH cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập như:
Về các trường hợp giải quyết chế độ tử tuất theo quy định của Luật BHXH đã cơ bản bao phủ hết các trường hợp, tuy nhiên riêng đối với trường hợp người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp TNLĐ, BNN hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo mà bị chết
trong tù thì chưa được quy định nên thân nhân chưa được hưởng chế độ tử tuất.
Còn có sự chênh lệch lớn giữa trợ cấp tuất một lần và trợ cấp tuất hàng tháng.Trong một số trường hợp nhiều NLĐ chết còn ít thân nhân đủ điều kiện hưởng tuất hàng tháng hoặc thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng là rất ngắn làm cho chênh lệch giữa tổng mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng và trợ cấp tuất một lần rất lớn. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể xác định “thu nhập” của thân nhân. Điều này dễ tạo nên sự tùy tiện trong việc giải quyết, xảy ra các trường hợp thân nhân người chết tìm cách lách luật, kê khai hoàn cảnh gia đình để được hưởng trợ cấp tuất một lần hoặc hàng tháng theo hướng có lợi hơn, gây thất thoát cho quỹ bảo hiểm xã hội.
Tương tự như mức hưởng BHXH một lần, mức trợ cấp tuất một lần đối với người đang đóng BHXH hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH chết chưa đảm bảo được nguyên tắc đóng – hưởng, gây thiệt thòi cho thân nhân người lao động.
* Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu được triển khai thực hiện theo quy định của Luật BHXH từ ngày 01/01/2009 nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ thất nghiệp, bên cạnh đó BHTN còn hỗ trợ họ trong việc học nghề, tìm việc làm và chi trả bảo hiểm y tế. Chính sách BHTN là sự giúp đỡ hữu hiệu đối với NLĐ trong thời điểm gặp khó khăn để họ có thể tiếp tục tham gia thị trường lao động. Tuy nhiên, do BHTN là chính sách mới, lần đầu tiên thực hiện ở Việt Nam nên trong quá trình thực hiện còn nhiều tồn tại và gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì BHTN áp dụng bắt buộc đối với NLĐ là công dân Việt Nam làm việc theo HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ
mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng với NSDLĐ tham gia BHTN theo quy định của Luật BHXH có sử dụng từ mười lao động trở lên. Như vậy, đối tượng áp dụng BHTN là những công dân Việt Nam, nhưng không phải là công dân nào cũng được tham gia mà chỉ những công dân đạt điều kiện luật định mới được tham gia BHTN. Việc quy định như trên cho thấy đối tượng được tham gia BHTN theo pháp luật hiện hành của nước ta rất hẹp. Những người có quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch sang Việt Nam làm việc trong thời gian dài thì không được đóng và hưởng trợ cấp BHTN. Luật BHXH quy định chỉ áp dụng BHTN với NLĐ làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng hoặc hợp đồng không xác định thời hạn, trong khi Nghị định 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ lại quy định rò ngoài các trường hợp trên thì những người ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển dụng vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước lại được tham gia BHTN.
Điều kiện đối với hưởng bảo hiểm thất nghiệp, một trong những điều kiện cần phải được nghiên cứu làm rò hơn là NLĐ đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc. Vấn đề đặt ra là trong vòng 24 tháng trước ngày NLĐ bị mất việc, họ mới chỉ đóng được 11 tháng BHTN thì họ có được hưởng chế độ BHTN không? Hơn nữa, Bộ Luật lao động hiện hành vẫn quy định về chế độ trợ cấp thôi việc cũng như trợ cấp mất việc đối với NLĐ khi họ thôi việc hoặc mất việc làm, nhưng sẽ không áp dụng các trợ cấp này với những đối tượng được hưởng chế độ BHTN. Do vậy về mối quan hệ giữa hưởng BHTN và các chế độ trợ cấp trên cũng cần được làm rò. Có quan điểm cho rằng, vẫn nên giữ cả chế độ trợ cấp thôi việc và mất việc bên cạnh chế độ BHTN, nhưng quan điểm khác lại đề nghị khi đã áp dụng chế độ BHTN thì thôi không áp dụng các chế độ về trợ