bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra… được áp dụng một số biện pháp điều tra ban đầu do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rò tính xác thực của các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rò sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v...
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này chỉ là xác định sự việc đã được thông tin có hay không có dấu hiệu tội phạm, nhằm khẳng định về mặt pháp lý có hay không có tội phạm xảy ra, để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự liên quan đến thông tin đó. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, mà chỉ tạo các tiền đề pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ án hình sự.
Với những phân tích trên có thể khẳng định: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, được bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng có thầm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cá nhân, cơ quan, tổ chức và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra một trong hai quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự, được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ, tài liệu sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố; hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
Giai đoạn điều tra được Bộ luật tố tụng hình sự quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và phục vụ hoạt động xét xử của Tòa án. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra.
Trong giai đoạn này, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án, Cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm, đảm bảo việc điều tra là chính xác, khách quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân. Các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Việc áp dụng các biện pháp trên phải đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là giai đoạn tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một
số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến việc xác định sự thật của vụ án.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn mà quyền con người dễ dàng bị xâm phạm hơn cả so với các giai đoạn tố tụng hình sự khác, bởi các lý do sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - 1
- Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - 2
- Quyền Con Người Trong Giai Đoạn Khởi Tố , Điều Tra Các Vụ Án Hình Sự
- Vai Trò Bảo Đảm Quyền Con Người Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Giai Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự
- Giai Đoạn Từ 1960 Đến Trước Khi Bltths 1988 Ra Đời
- Những Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm 2003 Về Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Giai Đoạn Khởi Tố - Điều Tra Các Vụ Án Hình Sự Của
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
- Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đi tìm sự thật khách quan của vụ án thông qua công tác truy nguyên hình sự. Lý luận về truy nguyên hình sự chỉ ra rằng: đối tượng của truy nguyên hình sự là đối tượng vật chất (người, động vật, đồ vật, các đơn chất, hợp chất vô cơ, hữu cơ, hay tổng thể một đối tượng vật chất có tính không gian), tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Hoạt động truy nguyên hình sự được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan và người tiến hành tố tụng. Quá trình này chính là quá trình nhận thức nhằm đi tìm một thực tế khách quan đã xảy ra. Có thể nói, hoạt động nhận thức của con người là một quá trình rất phức tạp, phụ thuộc vào việc vận dụng đúng các nguyên tắc truy nguyên hình sự, áp dụng đúng các phương pháp theo một trình tự logic; năng lực, trình độ của những người tiến hành tố tụng quyết định. Do vậy, rất dễ mắc phải những sai lầm dẫn đến nhận thức về thực tế khách quan đã xảy ra không đúng. Từ đó, có thể ra những quyết định khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra, làm ảnh hưởng, thậm chí xâm phạm đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, những người tiến hành tố tụng có vị trí độc lập về nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện các hoạt động tố tụng được
giao, việc họ có thể lợi dụng quyền hạn để thực hiện các hành vi vi phạm quyền con người, rất khó để phát hiện kịp thời. Đặc biệt, cơ quan điều tra là cơ quan có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất và con người trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, được trực tiếp sử dụng những biện pháp mang tính cưỡng chế đối với những người tham gia tố tụng, để làm sáng tỏ và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ở mức độ nhất định có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
- Thứ ba, Bộ luật tố tụng hình sự quy định những biện pháp điều tra và những biện pháp ngăn chặn có liên quan trực tiếp đến quyền con người, hạn chế quyền con người của công dân nói chung và quyền con người của những người tham gia tố tụng nói riêng, để đảm bảo việc phát hiện, điều tra và xử lý chính xác tội phạm, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như ngăn chặn tội phạm bỏ trốn, tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau như: sự tác động của những yếu tố bên ngoài bao gồm cả những mối quan hệ quen biết, áp lực từ phía chính quyền địa phương, từ thời hạn điều tra…; sự chống đối, không hợp tác của những người tham gia tố tụng, thậm chí là từ sự tha hóa về đạo đức lối sống và đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng… mà trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng có thể thực hiện những hành vi trái pháp luật, đưa ra những quyết định thiếu khách quan, toàn diện, không đúng quy định, không đạt được mục đích tố tụng trong giai đoạn điều tra, vi phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Thứ tư, một số quy định của pháp luật về các biện pháp điều tra cũng như biện pháp ngăn chặn chưa phù hợp có thể dẫn đến việc áp dụng một cách không thống nhất, dẫn đến quyền con người của những người tham gia tố tụng không được bảo vệ một cách đầy đủ.
Như trên đã phân tích, đối tượng của quyền con người trong tố tụng
hình sự gồm 03 nhóm chính là: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (gọi chung là nhóm người bị tình nghi phạm tội); Người người phạm tội đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên; Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng…
Tuy nhiên, giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chỉ là 02 giai đoạn trong quá trình tố tụng hình sự, do đó, đối tượng của quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, có sự khác biệt nhất định so với đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung. Theo đó, đối tượng của quyền con người trong hai giai đoạn này chỉ bao gồm:
- Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
- Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng…
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra: Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là những quyền về dân sự, chính trị dành cho những người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, những người tham gia tố tụng khác có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án, khi họ tham gia vào các quan hệ tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, được Nhà nước ghi nhận, và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tố tụng hình sự.
1.1.3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự
Khác với bảo vệ quyền con người, quyền công dân là việc xác định các biện pháp pháp lý, các biện pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân khi bị xâm phạm từ phía cơ quan công quyền, hay từ các chủ thể khác nhằm khôi phục các quyền đã bị xâm phạm; thì bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân lại là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận [52].
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là sự thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, đến việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu tư tưởng chỉ đạo mang tính định hướng chiến lược trong việc bảo đảm quyền con người:
Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo đảm quyền con người [17].
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là một trong các bảo đảm pháp lý có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người nói chung, xuất phát từ việc các hoạt động tố tụng hình sự thực hiện quyền lực nhà nước làm hạn chế hoặc có thể xâm phạm một cách nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là chức năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế -
xã hội, pháp lý của mình, hướng tới sự kết hợp giữa địa vị pháp lý và địa vị thực tế của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác [11, tr. 43 - 44].
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ngoài việc thực hiện trách nhiệm chứng minh tội phạm của mình, còn phải có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nếu có những hành vi vi phạm những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án, áp dụng các biện pháp ngăn chặn hay vi phạm trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ để xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng trên, đặc biệt là những người bị buộc tội, thì phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan sai; trường hợp vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự phải được vận hành bởi một cơ chế có hiệu quả, trong đó: cần quy định rò các quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng có liên quan khác, trên cơ sở các tiêu chí quốc tế về quyền con người, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người ở mỗi quốc gia; Đồng thời, quy định trình tự, thủ tục cũng như trách nhiệm của các chủ thể có liên quan bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người của những đối tượng này trên thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Như vậy, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là sự ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong tố tụng hình sự, xác định cách thức, biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền con người và thực thi các quyền đó trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.
Còn, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ
án hình sự là sự ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, xác định các cách thức, biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền con người và thực thi các quyền đó trong thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
1.2. Vị trí, vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan quan trọng có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Với chức năng trên, Viện kiểm sát nhân dân có phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý rộng lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng tham gia vào tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời sai phạm của người tiến hành tố tụng trong thi hành nhiệm vụ… Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố -